Giới thiệu: Truyện ngắn “He” (1925) ít có không khí kinh dị nhưng các truyện khác. Đó gần như một tự truyện - với giọng văn nhiều nỗi chán chường thực tại và hoài nhớ những giá trị con người cổ điển - được viết vào quãng thời gian HP Lovecraft lang thang tìm việc ở New York, nhưng thất bại. Những niềm tin yếu ớt cuối cùng của ông với đời thực bắt đầu bị gặm nát dần. Một năm sau, Lovecraft chia tay Sonia - người vợ hơn tuổi đã chu cấp cho ông trong một thời gian. Năm 1927, Lovecraft hoàn thiện bản thảo “Call of thulhu” và bắt đầu quãng thời gian sáng tác các kiệt tác của mình.
Gã ấy (1925) - H.P. Lovecraft
Từ truyện ngắn “He” viết năm 1925. Lương Tiểu Băng dịch từ bản gốc tiếng Anh.
Tôi gặp gã một đêm trắng, trong lúc cuồng bộ một cách tuyệt vọng hòng cứu rỗi linh hồn và cái nhìn nghệ sĩ của mình. Việc tôi đến New York này quả là một sai lầm; bởi trong khi tôi những mong tìm thấy cái kỳ quan thống thiết và nguồn linh hứng dạt dào trong những mê lộ trùng điệp của đám phố phường cổ kính, những con ngõ uốn lượn bất tận từ những sân trong, những quảng trường, những bến bờ đã chìm vào quên lãng để rồi lại dẫn đến những sân trong, những quảng trường, những bến bờ khác cũng bị lãng quên y hệt, và trong những khối tháp, những đỉnh nhọn tân kỳ ngất ngưởng một vẻ Cyclops, đen ngòm như thành Babylon dưới ánh trăng tà, thì thay vào đó, tôi chỉ tìm thấy một cảm giác kinh hoàng và áp chế, một thứ cảm giác doạ dẫm sẽ khuất phục, làm tê liệt và hủy diệt tôi.
Vỡ mộng ấy đến từ từ. Lần đầu đặt chân đến thị thành này, tôi đã thấy nó trong buổi hoàng hôn từ trên một cây cầu, uy nghi trên mặt nước, những chóp đỉnh, những kim tự tháp của nó đẹp không bút nào tả xiết, vươn lên mỏng mảnh như những đóa hoa từ những vũng sương tím biếc để vờnn đùa với những áng mây vàng rực lửa và những vì sao đầu hôm. Rồi từng ô cửa sổ một bừng sáng trên những con sóng thủy triều lung linh, nơi những ngọn đèn lồng gật gù, lướt đi và những tiếng còi tàu trầm đục rền lên những giai điệu kỳ quái, và chính nó, cái thành phố ấy, đã hóa thành một vòm trời đầy sao của cõi mộng, ngát hương một thứ nhạc thần tiên, và hợp nhất với những kỳ quan của Carcassonne, của Samarcand, của El Dorado và hết thảy những đô thị huy hoàng và nửa phần hoang đường khác. Ít lâu sau, người ta đưa tôi đi qua những con đường cổ kính mà trí tưởng tượng của tôi hằng yêu dấu - những ngõ hẻm chật hẹp, quanh co, nơi những dãy nhà gạch kiểu Georgian đỏ au chớp mắt bằng những ô cửa sổ áp mái có song nhỏ phía trên những bậc cửa có cột chống, những bậc cửa từng soi bóng những cỗ kiệu mạ vàng và những cỗ xe ngựa có vách gỗ; và trong cơn hân hoan đầu tiên khi được mục sở thị những điều hằng ao ước ấy, tôi đã nghĩ rằng mình quả đã tìm được những kho báu mà theo thời gian sẽ biến tôi thành một nhà thơ.
Nhưng thành công và hạnh phúc nào có đến. Ánh sáng ban ngày loè loẹt chỉ phơi bày ra sự bẩn thỉu và xa lạ, và cái chứng phù chân voi ghê tởm của thứ đá leo trèo, lan rộng, ở những nơi mà ánh trăng từng gợi về vẻ kiều diễm và ma thuật cổ xưa; và đám người lúc nhúc chảy qua những con phố tựa như lòng máng kia là những kẻ lạ mặt lùn tịt, ngăm đen với những bộ mặt chai sạn và đôi mắt hẹp, những kẻ lạ mặt khôn lỏi không có lấy một giấc mơ và cũng chẳng có mối liên hệ nào với cảnh vật xung quanh, những kẻ sẽ không bao giờ có ý nghĩa gì đối với một người mắt xanh thuộc dòng giống cũ, một kẻ mà trong tim là tình yêu dành cho những lối đi xanh mướt xinh đẹp và những ngọn tháp chuông của những ngôi làng miền New England trắng muốt.
Thế là, thay cho những vần thơ mà tôi đã hy vọng, chỉ có một trống rỗng đến rùng mình và một nỗi cô đơn không tả xiết; và cuối cùng tôi đã nhìn thấy sự thật đáng sợ mà chưa ai từng dám hé môi trước đây - bí mật không thể thốt nên lời của mọi bí mật - sự thật rằng cái thành phố của đá và tiếng gầm rú này không phải là một sự lưu tồn có tri giác của New York Cũ như London là của London Cũ và Paris là của Paris Cũ, mà thực chất nó đã hoàn toàn chết, cái xác kềnh càng của nó được ướp một cách không hoàn hảo và bị xâm chiếm bởi những sinh vật hoạt động kỳ quái chẳng liên quan gì đến nó khi nó còn sống. Khi phát hiện ra điều này, tôi không còn ngủ ngon được nữa; mặc dù một chút bình yên cam chịu đã quay trở lại khi tôi dần hình thành thói quen tránh xa các con phố vào ban ngày và chỉ mạo hiểm ra ngoài vào ban đêm, khi bóng tối gọi dậy những gì ít ỏi của quá khứ vẫn còn lởn vởn như bóng ma, và những ô cửa trắng cũ kỹ nhớ lại những dáng hình tráng kiện đã từng đi qua chúng. Với phương thức khuây khỏa này, tôi thậm chí còn viết được vài bài thơ, và vẫn kiềm chế không trở về nhà với người thân kẻo lại mang tiếng là một kẻ chiến bại lủi về một cách nhục nhã.
Rồi, trong một cuộc đi dạo vào một đêm không ngủ, tôi đã gặp gã. Đó là trong một sân ẩn khuất ở khu Greenwich, vì hơi ngu ngốc, tôi đã định cư ở đó, sau khi nghe nói nơi này là ngôi nhà tự nhiên của các thi sĩ và nghệ sĩ. Những con ngõ, những ngôi nhà cổ kính và những mảng quảng trường, sân trong bất ngờ quả thực đã làm tôi say mê, và khi tôi nhận ra những thi sĩ và nghệ sĩ kia chỉ là những kẻ giả danh huênh hoang mà sự kỳ quặc chỉ là kim tuyến giả tạo và cuộc sống của họ là một phủ nhận tất cả vẻ đẹp thuần khiết vốn là thơ và là nghệ thuật, tôi vẫn ở lại vì tình yêu với những di vật đáng kính này. Tôi mường tượng chúng như thời hoàng kim, khi Greenwich còn là một ngôi làng yên bình chưa bị thị thành nuốt chửng; và vào những giờ trước bình minh, khi tất cả những kẻ ăn chơi đã lẻn đi, tôi thường lang thang một mình giữa những khúc quanh co bí ẩn của chúng và trầm ngâm về những bí mật lạ lùng mà các thế hệ hẳn đã lắng đọng ở đó. Điều này giữ cho linh hồn tôi sống sót, và cho tôi một vài giấc mơ và ảo ảnh mà nhà thơ sâu thẳm trong tôi hằng khao khát.
Gã đàn ông đến với tôi vào khoảng hai giờ một buổi sáng tháng Tám nhiều mây, khi tôi đang luồn lách qua một loạt sân trong riêng biệt; những nơi bây giờ chỉ có thể vào được qua những hành lang không đèn của các tòa nhà xen kẽ, nhưng đã từng là một phần của một mạng lưới các con hẻm đẹp như tranh nối liền nhau. Tôi đã nghe phong thanh về chúng, và nhận ra rằng chúng không thể có trên bất kỳ bản đồ nào ngày nay; nhưng chính việc chúng bị lãng quên chỉ làm chúng trở nên đáng quý đối với tôi, đến nỗi tôi đã tìm kiếm chúng với sự hăm hở gấp đôi bình thường. Bây giờ khi đã tìm thấy, sự hăm hở của tôi lại tăng lên gấp bội; vì có một cái gì đó trong sự sắp đặt của chúng mơ hồ ám chỉ rằng chúng có thể chỉ là một vài trong số rất nhiều những nơi như vậy, với những bản sao tối tăm, câm lặng bị kẹt một cách khó thấy giữa những bức tường cao trống trơn và những khu nhà phụ bỏ hoang phía sau, hoặc ẩn mình không đèn đằng sau những mái vòm, không bị phản bội bởi đám đông nói tiếng nước ngoài hoặc được canh giữ bởi những nghệ sĩ lén lút và kín tiếng mà hành tung của họ không mời gọi sự công khai hay ánh sáng ban ngày.
Gã bắt chuyện với tôi không cần giao đãi, gã để ý đến tâm trạng và những cái liếc nhìn của tôi khi tôi đang săm soi những ô cửa có vòng gõ phía trên những bậc thềm có lan can sắt, ánh sáng nhợt nhạt của những ô kính chấn song phía trên cửa yếu ớt chiếu rọi lên mặt tôi. Mặt gã chìm trong bóng tối, và gã đội một chiếc mũ rộng vành không hiểu sao lại hòa hợp một cách hoàn hảo với chiếc áo choàng lỗi thời mà gã khoác; nhưng tôi đã cảm thấy bất an một cách tinh vi ngay cả trước khi gã bắt chuyện. Dáng người gã mảnh, gầy như một xác chết; và giọng nói của gã hóa ra lại mềm và rỗng một cách phi thường, mặc dù không đặc biệt sâu. Gã nói, gã đã để ý thấy tôi vài lần trong những cuộc lang thang của mình; và suy ra rằng tôi giống gã ở chỗ yêu thích những dấu tích của những năm tháng đã qua. Liệu tôi có muốn sự chỉ dẫn của một người đã thực hành lâu năm trong những cuộc thám hiểm này, và sở hữu những thông tin địa phương sâu sắc hơn bất kỳ thứ gì mà một người mới đến rõ ràng có thể có được không?
Khi gã nói, tôi thoáng thấy được khuôn mặt gã trong chùm tia vàng từ một cửa sổ áp mái đơn độc. Đó là một khuôn mặt cao quý, thậm chí là đẹp lão; và mang những dấu ấn của một dòng dõi và sự tinh tế khác thường so với thời đại và nơi chốn. Tuy nhiên, một phẩm chất nào đó ở nó làm tôi khó chịu gần như ngang với những đường nét làm tôi hài lòng - có lẽ nó quá trắng, hoặc quá vô cảm, hoặc quá lạc lõng với địa phương, để khiến tôi cảm thấy thoải mái. Dẫu vậy, tôi đã đi theo gã; vì trong những ngày buồn tẻ đó, cuộc tìm kiếm vẻ đẹp và sự bí ẩn cổ xưa của tôi là tất cả những gì tôi có để giữ cho linh hồn mình sống sót, và tôi coi đó là một ân huệ hiếm có của Số phận khi gặp được một người mà những cuộc tìm kiếm tương đồng dường như đã thâm nhập sâu hơn của tôi rất nhiều.
Có một cái gì đó trong đêm khuya đã buộc gã đàn ông mặc áo choàng phải im lặng, và trong một giờ dài, gã dẫn tôi đi mà không cần những lời nói thừa thãi; chỉ đưa ra những bình luận ngắn gọn nhất về những cái tên, ngày tháng và những thay đổi cổ xưa, và chủ yếu chỉ đạo đường đi của tôi bằng những cử chỉ khi chúng tôi lách qua những khe hở, rón rén đi qua những hành lang, trèo qua những bức tường gạch, và có lần bò bằng tay và đầu gối qua một lối đi thấp, hình vòm bằng đá mà chiều dài mênh mông và những khúc quanh co của nó cuối cùng đã xóa sạch mọi dấu hiệu về vị trí địa lý mà tôi đã cố gắng giữ lại. Những thứ chúng tôi thấy rất cổ và kỳ diệu, hoặc ít nhất chúng có vẻ như vậy dưới vài tia sáng lọt vào mà tôi nhìn thấy chúng, và tôi sẽ không bao giờ quên những cây cột Ionic xiêu vẹo, những cây cột áp tường có rãnh, những trụ hàng rào sắt đầu hình bình đựng tro cốt, những ô cửa sổ có lanh tô loe ra và những ô cửa hình quạt trang trí dường như càng trở nên cổ kính và lạ lùng hơn khi chúng tôi càng tiến sâu vào mê cung vô tận của sự cổ xưa vô danh này.
Chúng tôi không gặp một ai, và thời gian trôi qua, những cửa sổ sáng đèn ngày càng ít đi. Những ngọn đèn đường chúng tôi gặp đầu tiên là đèn dầu, và có dạng hình thoi cổ. Sau đó, tôi nhận thấy một số đèn cầy; và cuối cùng, sau khi đi qua một sân trong tối om kinh khủng nơi người dẫn đường của tôi phải dùng bàn tay đeo găng của mình để dẫn tôi đi trong bóng tối hoàn toàn đến một cánh cổng gỗ hẹp trên một bức tường cao, chúng tôi đến một đoạn hẻm chỉ được chiếu sáng bằng những chiếc đèn lồng trước mỗi ngôi nhà thứ bảy - những chiếc đèn lồng bằng thiếc không thể tin được từ thời thuộc địa với đỉnh hình nón và những lỗ được đục ở hai bên. Con hẻm này dốc ngược lên đồi - dốc hơn tôi nghĩ có thể có ở vùng này của New York - và đầu trên của nó bị chặn đứng bởi bức tường phủ đầy dây thường xuân của một khu đất tư nhân, phía sau đó tôi có thể thấy một mái vòm nhợt nhạt, và những ngọn cây xao động trên nền một thứ ánh sáng mờ ảo trên bầu trời. Trong bức tường này có một cánh cổng nhỏ, vòm thấp bằng gỗ sồi đen đóng đinh tán, mà người đàn ông tiến hành mở khóa bằng một chiếc chìa khóa nặng trịch. Dẫn tôi vào trong, gã lèo lái trong bóng tối hoàn toàn trên một thứ dường như là một con đường rải sỏi, và cuối cùng lên một bậc thềm đá đến cửa nhà, gã mở khóa và mở cửa cho tôi.
Chúng tôi bước vào, và khi làm vậy, tôi gần như ngất đi vì một mùi mốc meo vô tận xộc ra đón chúng tôi, một thứ mùi hẳn là kết quả của những thế kỷ mục nát không lành mạnh. Chủ nhà của tôi dường như không để ý đến điều này, và vì lịch sự, tôi giữ im lặng khi gã dẫn tôi lên một cầu thang cong, qua một sảnh, và vào một căn phòng mà tôi nghe thấy gã khóa cửa sau lưng chúng tôi. Sau đó, tôi thấy gã kéo rèm của ba ô cửa sổ có song nhỏ gần như không lộ ra trên nền trời đang sáng dần; sau đó gã băng qua lò sưởi, đánh đá lửa, thắp hai ngọn nến trong một giá nến mười hai nhánh, và ra hiệu yêu cầu nói chuyện nhỏ nhẹ.
Trong ánh sáng yếu ớt này, tôi thấy chúng tôi đang ở trong một thư viện rộng rãi, được trang bị đầy đủ và có vách gỗ từ quý đầu tiên của thế kỷ mười tám, với những đầu cột cửa lộng lẫy, một gờ tường Doric thú vị, và một bức trang trí trên lò sưởi được chạm khắc lộng lẫy với đỉnh hình cuộn và bình. Phía trên những giá sách đông đúc cách quãng dọc theo các bức tường là những bức chân dung gia đình được vẽ công phu; tất cả đều bị xỉn màu đến mức mờ ảo khó hiểu, và mang một sự tương đồng không thể nhầm lẫn với người đàn ông bây giờ đang ra hiệu cho tôi ngồi xuống một chiếc ghế bên cạnh chiếc bàn Chippendale duyên dáng. Trước khi ngồi xuống đối diện tôi bên kia bàn, chủ nhà của tôi dừng lại một lát như thể bối rối; sau đó, chậm rãi tháo găng tay, mũ rộng vành và áo choàng, đứng đó một cách kịch nghệ trong bộ trang phục đầy đủ của giữa thời Georgian từ mái tóc buộc đuôi sam và cổ áo diềm xếp nếp đến quần chẽn gối, tất lụa và đôi giày có khóa mà trước đó tôi không để ý. Bây giờ từ từ ngồi xuống một chiếc ghế tựa lưng hình đàn lia, gã bắt đầu nhìn tôi chăm chú.
Không có mũ, gã mang một vẻ ngoài cực kỳ già nua mà trước đây khó có thể nhìn thấy, và tôi tự hỏi liệu dấu hiệu trường thọ kỳ lạ không được nhận thấy này có phải là một trong những nguồn gốc của sự bất an ban đầu của tôi hay không. Khi gã cất tiếng nói, giọng nói mềm mại, rỗng tuếch và được cố ý giảm âm của gã không ít lần run rẩy; và thỉnh thoảng tôi rất khó theo dõi gã khi tôi lắng nghe với một sự hồi hộp của kinh ngạc và nỗi sợ hãi nửa phần chối bỏ, một nỗi sợ hãi ngày càng lớn theo từng khoảnh khắc.
"Thưa Ngài," chủ nhà của tôi bắt đầu, "ngài đang thấy một người có những thói quen rất lập dị, mà trang phục của kẻ này không cần phải xin lỗi một người có trí tuệ và khuynh hướng như ngài. Suy ngẫm về những thời tốt đẹp hơn, tôi đã không ngần ngại tìm hiểu cách sống của họ và áp dụng trang phục cũng như cung cách của họ; một sự nuông chiều không làm mất lòng ai nếu được thực hành mà không phô trương. Tôi đã may mắn giữ được nơi ở miền quê của tổ tiên mình, mặc dù nó đã bị hai thị trấn nuốt chửng, đầu tiên là Greenwich, xây dựng lên đến đây sau năm 1800, sau đó là New-York, nối vào gần năm 1830. Có nhiều lý do để gia đình tôi giữ gìn kỹ lưỡng nơi này, và tôi đã không lơ là trong việc thực hiện những nghĩa vụ đó. Vị địa chủ kế thừa nó vào năm 1768 đã nghiên cứu những nghệ thuật nhất định và thực hiện những khám phá nhất định, tất cả đều liên quan đến những ảnh hưởng tồn tại trong mảnh đất đặc biệt này, và hoàn toàn xứng đáng được bảo vệ mạnh mẽ nhất. Một số hiệu ứng kỳ lạ của những nghệ thuật và khám phá này bây giờ tôi dự định cho ngài xem, với sự bí mật nghiêm ngặt nhất; và tôi tin rằng tôi có thể dựa vào khả năng phán đoán con người của mình đủ để không nghi ngờ gì về sự quan tâm hay lòng trung thành của ngài."
Gã ngừng lại, nhưng tôi chỉ có thể gật đầu. Tôi đã nói rằng tôi hoảng sợ, nhưng đối với linh hồn tôi, không có gì chết chóc hơn thế giới vật chất ban ngày của New York, và dù người đàn ông này là một kẻ lập dị vô hại hay một kẻ sử dụng những nghệ thuật nguy hiểm, tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc đi theo gã và làm dịu cơn khát kỳ quan của mình bằng bất cứ thứ gì gã có thể mang lại. Vì vậy, tôi lắng nghe.
"Đối với tổ tiên tôi-" gã tiếp tục nhẹ nhàng, "-dường như có một số phẩm chất rất đáng chú ý trong ý chí của loài người; những phẩm chất có một sự thống trị ít ai ngờ tới không chỉ đối với hành động của chính mình và của người khác, mà còn đối với mọi loại lực lượng và vật chất trong Tự nhiên, và đối với nhiều yếu tố và chiều không gian được cho là phổ quát hơn cả chính Tự nhiên. Tôi có thể nói rằng ông ấy đã coi thường sự thiêng liêng của những thứ vĩ đại như không gian và thời gian, và ông ấy đã sử dụng những nghi lễ của một số thổ dân da đỏ lai từng đóng trại trên ngọn đồi này vào những mục đích kỳ lạ? Những người da đỏ này đã tỏ ra tức giận khi nơi này được xây dựng, và rất phiền phức khi đòi đến thăm khu đất vào lúc trăng tròn. Trong nhiều năm, họ lẻn qua tường mỗi tháng khi có thể, và lén lút thực hiện những hành vi nhất định. Sau đó, vào năm '68, vị địa chủ mới đã bắt gặp họ đang làm việc, và đứng sững trước những gì ông ta thấy. Sau đó, ông ta đã thương lượng với họ và đổi quyền tự do ra vào khu đất của mình để lấy bí mật chính xác về những gì họ làm; biết được rằng ông bà của họ đã nhận được một phần tập tục từ tổ tiên da đỏ và một phần từ một người Hà Lan già vào thời của các Tiểu bang-Thống nhất. Và trời phạt gã, tôi e rằng vị địa chủ hẳn đã cho họ uống thứ rượu rum tệ hại - dù có cố ý hay không - vì một tuần sau khi biết được bí mật, ông ta là người duy nhất còn sống biết nó. Ngài, thưa Ngài, là người ngoài đầu tiên được cho biết có một bí mật, và xin trời đánh nếu tôi đã dám mạo hiểm can thiệp nhiều đến thế với các thế lực - nếu ngài không quá tha thiết với những thứ đã qua."
Tôi rùng mình khi gã bắt đầu nên suồng sã - và với một lối nói quen thuộc của một thời đại khác. Gã tiếp lời:
"Nhưng ngài phải biết, thưa Ngài, rằng những gì vị địa chủ - có được từ những kẻ mọi rợ lai căng đó - chỉ là một phần nhỏ trong kiến thức mà ông ta đã có. Ông ta đã không học ở Oxford vô ích, cũng không nói chuyện vô ích với một nhà hóa học và chiêm tinh cổ ở Paris. Tóm lại, ông ta đã nhận thức được rằng cả thế giới này chỉ là khói của trí tuệ chúng ta; vượt quá sự điều khiển của kẻ phàm tục, nhưng đối với người khôn ngoan thì có thể thổi ra và hít vào như bất kỳ đám mây thuốc lá Virginia hảo hạng nào. Cái gì chúng ta muốn, chúng ta có thể tạo ra xung quanh mình; và cái gì chúng ta không muốn, chúng ta có thể quét đi. Tôi sẽ không nói rằng tất cả những điều này hoàn toàn đúng về mặt vật chất, nhưng nó đủ đúng để thỉnh thoảng tạo ra một cảnh tượng khá đẹp. Ngài, tôi nghĩ, sẽ thích thú với một cái nhìn tốt hơn về những năm tháng khác so với những gì trí tưởng tượng của ngài mang lại; vì vậy xin vui lòng kìm nén bất kỳ sự sợ hãi nào trước những gì tôi định cho ngài xem. Hãy đến cửa sổ và giữ im lặng."
Chủ nhà của tôi bây giờ nắm tay tôi để kéo tôi đến một trong hai cửa sổ ở phía dài của căn phòng hôi hám, và ngay lần chạm đầu tiên của những ngón tay không đeo găng của gã, tôi lạnh toát. Da thịt gã, mặc dù khô và chắc, nhưng có chất của băng; và tôi gần như lùi lại khỏi sự kéo của gã. Nhưng một lần nữa tôi nghĩ đến sự trống rỗng và kinh hoàng của thực tại, và mạnh dạn chuẩn bị đi theo bất cứ nơi nào tôi có thể được dẫn đến. Khi đã ở cửa sổ, gã đàn ông kéo tấm rèm lụa màu vàng sang một bên và hướng ánh mắt của tôi vào bóng tối bên ngoài. Trong một khoảnh khắc, tôi không thấy gì ngoài vô số những ánh sáng nhỏ li ti nhảy múa, xa, rất xa trước mặt tôi. Sau đó, như thể đáp lại một chuyển động lén lút của bàn tay chủ nhà, một tia chớp lóe lên trên khung cảnh, và tôi nhìn ra một biển lá cây tươi tốt - một thảm thực vật không bị ô nhiễm, và không phải là biển mái nhà như bất kỳ tâm trí bình thường nào mong đợi. Bên phải tôi, sông Hudson lấp lánh một cách hiểm ác, và ở phía xa trước mặt, tôi thấy ánh sáng lập lòe không lành mạnh của một đầm lầy muối rộng lớn lốm đốm những con đom đóm bồn chồn. Tia chớp tắt, và một nụ cười độc ác rạng lên trên khuôn mặt sáp của nhà ma thuật già nua.
"Đó là trước thời của ta - trước thời của vị địa chủ mới. Xin hãy thử lại."
Tôi thấy choáng váng, thậm chí còn choáng váng hơn cả cái vẻ hiện đại đáng ghét của cái thành phố bị nguyền rủa đó đã làm tôi.
"Lạy Chúa!" tôi thì thầm, "ông có thể làm điều đó cho bất kỳ thời điểm nào sao?" Và khi gã gật đầu, và nhe ra những gốc răng đen kịt của những chiếc răng nanh từng một thời vàng óng, tôi vớ lấy tấm rèm để khỏi ngã. Nhưng gã đã giữ tôi lại bằng cái móng vuốt khủng khiếp, lạnh như băng đó, và một lần nữa thực hiện cử chỉ lén lút của mình.
Lại một lần nữa tia chớp lóe lên - nhưng lần này là trên một khung cảnh không hoàn toàn xa lạ. Đó là Greenwich, Greenwich của ngày xưa, với đây đó một mái nhà hoặc một dãy nhà như chúng ta thấy bây giờ, nhưng với những con đường xanh tươi đáng yêu, những cánh đồng và những mảng cỏ chung. Đầm lầy vẫn lấp lánh ở phía xa, nhưng ở khoảng cách xa hơn, tôi thấy những ngọn tháp chuông của nơi mà khi đó là toàn bộ New York; nhà thờ Trinity, St. Paul và nhà thờ Gạch thống trị các nhà thờ chị em của chúng, và một làn khói gỗ mờ ảo bao trùm lên toàn bộ. Tôi thở hổn hển, nhưng không phải vì bản thân cảnh tượng đó mà vì những khả năng mà trí tưởng tượng của tôi kinh hãi gợi lên.
"Ông có thể - ông có dám đi xa không?" Tôi nói với vẻ kinh sợ, và tôi nghĩ gã cũng chia sẻ điều đó trong một giây, nhưng nụ cười độc ác đã trở lại.
"Xa ư? Những gì ta đã thấy sẽ làm ngươi nổ tung thành một bức tượng đá điên dại! Lùi lại, lùi lại - tiến lên, tiến lên - nhìn đi, đồ ngu ngốc yếu đuối!"
Và khi gã gầm gừ câu nói đó dưới hơi thở, gã lại ra hiệu; mang đến bầu trời một tia chớp chói lòa hơn cả hai tia trước đó. Trong trọn ba giây, tôi có thể thoáng thấy cảnh tượng hỗn loạn đó, và trong những giây đó tôi đã thấy một viễn cảnh sẽ mãi mãi hành hạ tôi trong những giấc mơ. Tôi thấy bầu trời đầy rẫy những sinh vật bay kỳ lạ, và bên dưới chúng là một thành phố đen ngòm địa ngục của những bậc thềm đá khổng lồ với những kim tự tháp ngạo mạn vươn lên mặt trăng một cách tàn bạo, và những ánh đèn quỷ dữ cháy lên từ vô số cửa sổ. Và lúc nhúc một cách ghê tởm trên những hành lang trên không, tôi thấy những người da vàng, mắt xếch của thành phố đó, mặc những bộ áo choàng màu cam và đỏ một cách khủng khiếp, và nhảy múa điên cuồng theo tiếng trống ấm sốt ruột, tiếng lách cách của những chiếc crotala tục tĩu, và tiếng rên rỉ điên cuồng của những chiếc kèn câm mà những khúc ai ca không ngớt của chúng dâng lên và hạ xuống nhấp nhô như những con sóng của một đại dương nhựa đường không thánh thiện.
Tôi đã thấy viễn cảnh đó, tôi nói, và nghe như bằng đôi tai của tâm trí bản giao hưởng chói của những âm thanh hỗn loạn đi kèm. Đó là ứng nghiệm gào thét của tất cả nỗi kinh hoàng mà cái thành phố-xác chết đó đã từng khuấy động trong tâm hồn tôi, và quên đi mọi lời dặn phải im lặng, tôi đã hét lên và hét lên và hét lên khi thần kinh của tôi suy sụp và những bức tường rung chuyển xung quanh tôi.
Sau đó, khi tia chớp tắt dần, tôi thấy chủ nhà của tôi cũng đang run rẩy; một vẻ sợ hãi kinh hoàng gần như xóa đi khỏi khuôn mặt gã sự méo mó như rắn của cơn thịnh nộ mà tiếng hét của tôi đã kích động. Gã loạng choạng, vớ lấy tấm rèm như tôi đã làm trước đó, và ngọ nguậy đầu một cách điên cuồng, như một con vật bị săn đuổi. Lạy Chúa, gã có lý do, vì khi tiếng vang của tiếng hét của tôi tắt dần, một âm thanh khác vang lên, một âm thanh gợi ý đến mức địa ngục đến nỗi chỉ có cảm xúc tê liệt mới giữ cho tôi tỉnh táo và có ý thức. Đó là tiếng cọt kẹt đều đặn, lén lút của cầu thang bên ngoài cánh cửa khóa, như thể có một đám đông đi chân trần hoặc giày da đang đi lên; và cuối cùng là tiếng lạch cạch thận trọng, có chủ đích của chiếc chốt cửa bằng đồng sáng lên trong ánh nến yếu. Lão già cào cấu và phỉ nhổ vào tôi qua không khí ẩm mốc, và sủa những tiếng trong cổ họng khi lão lắc lư với tấm rèm màu vàng mà lão đang nắm chặt.
"Trăng tròn - khốn kiếp nhà ngươi, đồ chó tru - ngươi đã gọi chúng, và chúng đã đến tìm ta! Chân đi moccasin - những người chết - Chúa dìm ngươi xuống, lũ quỷ đỏ, nhưng ta không đầu độc rượu của các ngươi - chẳng phải ta đã giữ an toàn phép thuật mục rữa của các ngươi sao? - các ngươi tự chuốc lấy bệnh, nguyền rủa các ngươi, và các ngươi phải đổ lỗi cho vị địa chủ - buông ra, ngươi! Bỏ cái chốt cửa đó ra - ta không có gì cho các ngươi ở đây-"
Đến đây, ba tiếng gõ chậm rãi và rất cố ý làm rung chuyển các tấm ván cửa, và một lớp bọt trắng tụ lại ở miệng nhà ảo thuật điên cuồng. Nỗi sợ hãi của gã, chuyển thành sự tuyệt vọng thép đá, nhường chỗ cho sự trỗi dậy của cơn thịnh nộ đối với tôi; và gã loạng choạng một bước về phía chiếc bàn mà tôi đang vịn vào mép. Tấm rèm, vẫn bị nắm chặt trong tay phải của gã khi tay trái của gã cào về phía tôi, căng ra và cuối cùng rơi sầm xuống từ những chiếc móc cao; để cho một luồng ánh trăng tròn mà sự sáng lên của bầu trời đã báo trước tràn vào phòng. Trong những tia sáng xanh lục đó, những ngọn nến nhạt đi, và một vẻ mục nát mới lan ra khắp căn phòng nồng nặc mùi xạ hương với những tấm vách gỗ bị mọt ăn, sàn nhà ọp ẹp, lò sưởi bị sứt mẻ, đồ đạc ọp ẹp và những tấm rèm rách rưới. Nó cũng lan ra trên người lão già, dù là từ cùng một nguồn hay vì sự sợ hãi và dữ dội của lão, và tôi thấy lão co lại và đen đi khi lão lảo đảo đến gần và cố gắng xé xác tôi bằng những móng vuốt như kền kền. Chỉ có đôi mắt của lão còn nguyên vẹn, và chúng trừng trừng với một ánh sáng nóng rực, giãn nở, một ánh sáng ngày càng lớn khi khuôn mặt xung quanh chúng cháy thành than và teo lại.
Tiếng gõ cửa bây giờ được lặp lại với nỗi khẩn thiết lớn hơn, và lần này còn mang một chút âm thanh của kim loại. Cái vật đen ngòm đối mặt tôi đã chỉ còn là một cái đầu với đôi mắt, bất lực cố gắng ngọ nguậy trên sàn nhà đang sụt lún về phía tôi, và thỉnh thoảng phát ra những tiếng phì phì yếu ớt của sự ác độc bất tử. Bây giờ những cú đập nhanh và làm vỡ vụn tấn công vào những tấm ván cửa ọp ẹp, và tôi thấy ánh lóe lên của một chiếc rìu tô-ma-hốc khi nó chẻ đôi tấm gỗ đang rách. Tôi không di chuyển, vì tôi không thể; mà chỉ ngơ ngác nhìn cánh cửa vỡ tan tành để cho một luồng chất đen kịt, vô hình ồ ạt tràn vào, lốm đốm những con mắt sáng rực, ác độc. Nó đổ vào đặc quánh, như một trận lụt dầu vỡ một vách ngăn mục nát, lật đổ một chiếc ghế khi nó lan ra, và cuối cùng chảy dưới bàn và qua phòng đến nơi cái đầu đen kịt với đôi mắt vẫn đang trừng trừng nhìn tôi. Xung quanh cái đầu đó, nó khép lại, hoàn toàn nuốt chửng nó, và trong một khoảnh khắc khác, nó đã bắt đầu rút lui; mang đi gánh nặng vô hình của nó mà không chạm vào tôi, và lại chảy ra khỏi ô cửa đen đó và xuống cầu thang vô hình, cầu thang lại kêu cọt kẹt như trước, mặc dù theo thứ tự ngược lại.
Rồi sàn nhà cuối cùng cũng sụp đổ, và tôi trượt xuống, thở hổn hển, vào căn phòng tối om bên dưới, nghẹt thở vì mạng nhện và gần như ngất đi vì kinh hoàng. Ánh trăng xanh lục, chiếu qua những cửa sổ vỡ, cho tôi thấy cánh cửa ra sảnh hé mở; và khi tôi đứng dậy khỏi sàn nhà rải đầy vữa và gỡ mình ra khỏi những trần nhà bị võng xuống, tôi thấy một dòng thác đen kịt khủng khiếp quét qua nó, với hàng chục con mắt độc ác phát sáng trong đó. Nó đang tìm cửa xuống hầm, và khi tìm thấy, nó biến mất vào. Bây giờ tôi cảm thấy sàn của căn phòng dưới này cũng đang sụp xuống như căn phòng trên đã làm, và một tiếng đổ sập phía trên đã được theo sau bởi sự rơi qua cửa sổ phía tây của một thứ gì đó hẳn là mái vòm. Bây giờ được giải thoát trong giây lát khỏi đống đổ nát, tôi lao qua sảnh đến cửa trước; và thấy mình không thể mở được, tôi vớ lấy một chiếc ghế và đập vỡ một cửa sổ, điên cuồng trèo ra bãi cỏ không được chăm sóc, nơi ánh trăng nhảy múa trên cỏ và cỏ dại cao đến thắt lưng. Bức tường cao, và tất cả các cổng đều bị khóa; nhưng bằng cách di chuyển một đống hộp ở một góc, tôi đã có thể lên đến đỉnh và bám vào chiếc bình đá lớn đặt ở đó.
Xung quanh tôi, trong kiệt sức, tôi chỉ có thể thấy những bức tường và cửa sổ xa lạ và những mái nhà hai mái kiểu cũ. Con phố dốc mà tôi đã đi lên không còn thấy đâu, và chút ít tôi thấy được cũng nhanh chóng chìm vào một làn sương mù cuộn vào từ sông bất chấp ánh trăng chói lọi. Đột nhiên chiếc bình mà tôi đang bám vào bắt đầu rung chuyển, như thể chia sẻ cơn chóng mặt chết người của chính tôi; và trong một khoảnh khắc khác, cơ thể tôi lao xuống không biết số phận nào đang chờ đợi.
Người đàn ông tìm thấy tôi nói rằng tôi hẳn đã bò một quãng đường dài mặc dù xương gãy, vì một vệt máu kéo dài đến tận nơi ông ta dám nhìn. Cơn mưa đang kéo đến đã sớm xóa đi mối liên kết này với hiện trường của cuộc thử thách của tôi, và các báo cáo không thể nói gì hơn ngoài việc tôi đã xuất hiện từ một nơi không rõ, ở lối vào của một sân trong nhỏ màu đen ngoài phố Perry.
Tôi chưa bao giờ tìm cách trở lại những mê cung âm u đó, và tôi cũng sẽ không chỉ đường cho bất kỳ người tỉnh táo nào đến đó nếu tôi có thể. Về việc sinh vật cổ xưa đó là ai hay là gì, tôi không có ý kiến; nhưng tôi xin nhắc lại rằng thành phố này đã chết và đầy rẫy những nỗi kinh hoàng không ngờ tới. Gã đã đi đâu, tôi không biết; nhưng tôi đã trở về nhà, về những con đường thanh khiết của New England, nơi những cơn gió biển thơm ngát thổi vào buổi chiều.
Hết