Trong truyện này, thú vị ở chỗ có “truyện nằm trong truyện”
William Tucker - một tay nhà văn viết truyện trinh thám - đang bí trong việc sáng tác. Anh ta ngồi trước máy đánh chữ với tiêu đề "Murder Self-Committed" (Vụ giết người tự gây ra) nhưng không thể viết thêm được gì .
Trong lúc bế tắc, anh ta bắt đầu viết một câu chuyện hư cấu về một người đàn ông tên Strickland, người lên kế hoạch trả thù kẻ đã phản bội mình….
Cornell Woolrich: Murder-Story
Rút từ tập After Dinner Story, 1944. Lương Tiểu Băng chuyển ngữ từ tiếng Anh
1
Trên quầy đổi tiền, đồng hồ chỉ bốn giờ kém năm khi tôi bước lên những bậc thang viền thép từ sân ga. Tiếng gầm gào của đoàn tàu xa dần rồi lịm hẳn dưới lòng đất.
Tôi dừng lại một thoáng, như thể việc leo trèo đã làm tôi mệt lử. Nhưng tôi đâu đã già, cớ sao một dãy cầu thang tàu điện ngầm lại khiến tôi mệt được? Trên mặt đất không khí mát hơn, đông hay hè cũng đều thế. Tôi hít một hơi sâu, rồi lại thở ra, hai má phồng lên như cặp ống bễ. Nhưng tôi đâu có hụt hơi, cớ sao lại cần không khí đến thế?
Gã Larry bán báo vẫn túc trực trước sạp của mình, ngay ngoài cửa ra vào, như mọi đêm từ mười giờ đến sáu giờ sáng. Một ngọn đèn dầu đặt trên quầy để soi sáng, một hộp xì gà mở nắp đựng tiền lẻ. Một hàng tạp chí màu được kẹp treo thành hình tam giác dọc mép trên mái sạp. Vừa thấy tôi, gã liền vỗ một tờ báo lá cải màu xanh nhạt và một tờ khổ lớn màu trắng, cả hai đều là ấn bản nửa đêm của báo ngày mai, cuộn chúng lại với nhau rồi chìa về phía tôi. Chuyện này đã diễn ra bao năm rồi.
Gã nói: "Chào. Khỏe chứ?"
Tay tôi không tài nào giữ yên được khi lần ra đồng năm xu từ nắm tiền lẻ. Tôi làm rơi một đồng năm xu và một đồng một hào. Tôi thấy ngượng vì cái cách nó run lên, trong khi tay gã thì vững như bàn thạch. Kẹp mớ báo dưới một bên nách, tôi đút cả hai tay sâu vào túi quần, để cái sự run rẩy không còn lộ ra nữa. Tôi đâu có say, cớ sao tay tôi lại run đến thế? Mà nghĩ cho cùng, cớ sao tôi phải bận tâm xem cái sự run rẩy ấy có lộ ra hay không? Chẳng có luật nào cấm tay run cả.
Derndorf, viên cảnh sát, đang lăn mấy cái trụ giao thông vào lề cho hết đêm. Những thứ nặng trịch, đế đặc, nặng cả tấn, dùng để tạo một làn đường an toàn cho người xuống xe điện. Giờ thì chúng không cần thiết nữa. Thực ra, chúng đáng lẽ phải được dọn đi từ mấy tiếng trước, khi đèn tín hiệu tắt, nhưng có lẽ hôm nay là một tay lính mới đi tuần. Anh ta nói: "Chào ông bạn. Có gì mới không?" Chuyện này cũng đã diễn ra bao năm rồi.
Tôi bước vào nơi mình ở. Hamilton, gã thư ký trực đêm mặt trắng bệch, đang cặm cụi trên mấy cuốn sổ cái, tội nghiệp. Gã có cái nước da bợt bạt của những kẻ cả đời làm việc về đêm.
Gã ngước lên và hỏi: "Tối nay trận đấu võ ai thắng thế?"
Tôi giở báo ra xem rồi nói cho gã biết; gã phải hóng tin thể thao qua người khác, bị nhốt sau cái bàn giấy như thế.
Gã hỏi: "Thế mai có cần gọi dậy không?"
Tôi nghiến chặt hàm. "Cứ thử xem," tôi cảnh cáo. "Cứ thử xem." Nhưng có lẽ ý tôi chẳng hề bông đùa như gã tưởng.
"Trông ông bạn bễ quá," gã thừa nhận.
Điểm mấu chốt của tất cả những điều này là: tất cả những người này đều biết tôi, đã biết tôi từ bao năm qua. Tôi là một gương mặt cũ kỹ quen thuộc với họ. Tôi không phải là một trong những kẻ mà những chuyện động trời xảy ra, những kẻ mà người ta đọc thấy trên báo. Tôi là một phần của cái khung cảnh này.
Trên hành lang tầng trên, ngoài cửa phòng tôi, bàn tay lại giở trò với tôi lần nữa. Chìa khóa của tôi rơi xuống kêu loảng xoảng, lần đầu tuột khỏi tay, lần thứ hai tuột khỏi chính ổ khóa. Tôi đã dùng nó đủ lâu, đáng lẽ phải biết cách xoay sở với nó rồi chứ. Cuối cùng tôi cũng mở được cửa, mò mẫm tìm công tắc đèn.
Tôi đã sống trong căn phòng này nhiều năm, nó vẫn hệt như lúc tôi rời đi vài giờ trước. Ấy thế mà cái cách tôi nhìn quanh nó, người ta sẽ nghĩ tôi chưa từng thấy nó bao giờ. Vậy nên có lẽ, đối với tôi, nó không hoàn toàn giống như lúc tôi rời đi.
Tôi đóng cửa lại. Tôi đột nhiên ôm lấy đầu bằng cả hai tay, bất thần như thể nó là một vật lạ vừa từ trần nhà rớt xuống vai mình. Tôi lê bước một cách nặng nề vào phòng tắm, như thể có thứ gì đó đang cản trở bước chân, như thể tôi đang đi trên đôi giày tuyết. Tôi cởi áo khoác, xắn tay áo lên, vặn vòi nước nóng, pha thêm một chút nước lạnh để không bị bỏng.
Tôi bắt đầu rửa tay. Tay tôi cũng chẳng bẩn lắm. Tôi tình cờ ngước lên, bắt gặp mặt mình trong tấm gương tủ thuốc trước mặt. Tôi vội mở tủ, gập tấm gương ra sau cho khuất mắt. Hiếm có người đàn ông nào không chịu nổi được dung mạo của chính mình.
Nước cứ chảy mãi thôi, và tôi dường như không bao giờ rửa tay cho xong được. Chúng bắt đầu đỏ ửng và trở nên nhạy cảm. Rồi khi đã lau khô, tôi đột nhiên lại nhúng chúng vào nước, như thể không tài nào làm chúng đủ sạch theo ý mình. Tôi cứ nhìn chằm chằm vào chúng như thể chưa từng thấy chúng bao giờ. Hoặc như thể chúng vừa chơi tôi một vố bẩn thỉu.
Tôi bước ra khỏi đó, lén lút lau tay vào hai bên hông quần, dù vừa mới lau bằng khăn xong. Chiếc máy chữ xách tay của tôi đang mở, nằm ở chỗ tôi đã để nó. Cái "kẹp" giấy quen thuộc vẫn còn đó trên trục lăn, một bản gốc màu trắng, một tờ giấy than ở giữa, một bản sao màu vàng. Trên tờ giấy chỉ có một dòng chữ duy nhất ở trên cùng: "Án Mạng Tự Gây, của William S. Tucker". Chỉ có thế và không gì khác. Nhưng cái gạt tàn khổng lồ bên cạnh thì chứa đầy tàn thuốc của cả hai gói thuốc lá. Có một sự bất cân xứng giữa khối lượng công việc đã hoàn thành và nỗ lực bỏ ra để thực hiện nó.
Bên cạnh điện thoại là một mẩu giấy nhắn viết bằng bút chì nhận được ở quầy lễ tân khách sạn lúc ban ngày, mà tôi đã mang vào cùng mình chiều hôm đó.
"Ông Wayne của công ty Stoddard đã gọi.
Muốn biết khi nào ông có thể có được câu chuyện mà ông đã hứa?
Nhận lúc: 4:15 chiều"
Tôi nhặt tờ giấy lên, nhìn nó. "Ông ta có thể có nó ngay bây giờ!" tôi nói. Một âm thanh nghẹn ngào kỳ lạ bật ra trong cổ họng tôi, như một tiếng rên uất nghẹn giữa chừng.
Tôi ngồi xuống bên máy chữ. Đã khá muộn để gõ phím, nhưng ông Wayne phải có câu chuyện của mình. Có một hạn chót cho nó. Ban quản lý đã dán những dải nỉ quanh các mép cửa phòng tôi vài tháng trước, theo yêu cầu của tôi. Tôi được cách âm khá tốt. Và ông Wayne phải có câu chuyện của mình.
Lần đầu tiên kể từ khi tôi bắt đầu viết lách chuyên nghiệp, tôi khởi sự từ con số không, không có một dàn ý cốt truyện bên cạnh, không một ghi chú nào để giúp tôi. Có lẽ lần này tôi chẳng cần đến chúng.
2
Án Mạng Tự Gây
truyện viết bởi William S. Tucker
Leslie Quiller xem chừng chẳng vui vẻ gì khi thấy Strickland lúc gã trả lời tiếng chuông cửa vào những giờ đầu của buổi sáng hôm đó. Gã hẳn sẽ còn kém vui hơn nữa nếu biết điều gì đã mang hắn đến đó vào giờ này, sau ngần ấy năm. Strickland đã đến để gây ra cái chết của gã.
Hắn không mang theo súng, không dao, không có thứ gì cần phải phi tang sau đó. Hắn đã suy tính kỹ lưỡng; hắn biết những thứ như vậy, những công cụ, luôn luôn phản tác dụng, cuối cùng rồi cũng bị lần ra dấu vết. Những kẻ giết người đã bị theo dấu bởi những sợi dây, những mẩu dây thừng, bởi chính những sợi chỉ.
Hắn chẳng mang theo gì ngoài hai bàn tay trắng. Ấy thế mà hắn cũng không định bóp cổ Quiller; điều đó có thể gây ra những tiếng la hét, một cuộc vật lộn. Một vết cào, một túm tóc phản bội, một mẩu da dưới móng tay. Sẽ không có bạo lực nào giữa hai người họ, không có sự tiếp xúc. Quiller sẽ tự chuốc lấy cái chết của mình, sau khi Strickland đã bỏ đi, để lại gã vẫn còn sống. Giết người ư? Phải. Nhưng tinh vi, không thô thiển. Ai có thể gọi đó là một vụ giết người, mà không phải là một tai nạn? Ai sẽ biết được, ngoài chính Strickland?
Lý do Strickland muốn Quiller phải chết thì vừa chính đáng vừa đầy đủ. Nhưng luật pháp không công nhận bất kỳ lý do nào cho việc giết người, và Strickland không hề muốn phải trả giá cho những gì hắn sắp làm. Thực hiện nó một cách thành công và không bị phát hiện sau đó mới là toàn bộ mục đích của hắn, chứ không chỉ đơn giản là thực hiện bằng mọi giá, không quan tâm điều gì sẽ xảy ra với bản thân mình sau đó. Bất kỳ kẻ ngốc nào cũng có thể làm được điều đó.
Đó là lý do tại sao hắn đã chờ thời, đợi rất lâu. Trong hai năm, hắn đã nuôi dưỡng lòng căm phẫn cháy bỏng của mình, nhưng không hề hành động. Mối hận của hắn là một trong những vết thương mưng mủ từ bên trong, rất khó phát hiện, đến nỗi đôi khi ngay cả chính nạn nhân cũng không nhận thức được mình đã gây ra nó, chứ đừng nói đến cảnh sát khi đến lúc tìm ra động cơ cho tội ác đã xảy ra. Phụ nữ? Tiền bạc? Cảnh sát nhanh chóng khám phá ra một động cơ như thế. Nhưng Strickland chẳng muốn gì từ Quiller ngoài mạng sống của gã. Mối hận của hắn là những điều vô ảnh vô hình; vậy làm sao họ có thể mong gỡ rối được nó?
Thành công của Quiller và cái thất bại của Strickland. Nhờ hắn mà Quiller đã có được khởi đầu của mình, và ngay lập tức đá đổ cái thang đã giúp gã có được chỗ đứng. Strickland là cái thang đó, Quiller là kẻ leo trèo. Cái thang nằm bẹp dí đó, kẻ leo trèo thì cứ thế mà đi lên.
Thời gian chỉ làm vết thương thêm lớn thay vì chữa lành nó. Trong hai năm, trong khi Quiller đi từ thành công không xứng đáng này đến thành công khác, gã đã chết trong tâm trí của Strickland. Cứ như thể ba đường thẳng phân kỳ được dán nhãn "cơ hội", "phương pháp" và "an toàn tối đa" đang từ từ hội tụ về một điểm duy nhất. Ngày và giờ chúng gặp nhau, sẽ là giờ chết của Quiller. "Cơ hội" gần như luôn trong tầm tay; "an toàn tối đa" đã đến gần vài lần trong suốt hai năm; chỉ có "phương pháp" là thứ khó nắm bắt. Và hai cái kia hoàn toàn phụ thuộc vào nó.
Tại phòng mạch của một vị bác sĩ, vào một ngày nọ, ba đường thẳng ấy đột ngột giao nhau mà chẳng hề báo trước.
Strickland đã đến đó để khám một vết bong gân nhỏ nhưng đau ở lưng. Hắn thường khỏe mạnh, hiếm khi đến bác sĩ. Hắn luôn đến khám ở vị bác sĩ này, và việc Quiller cũng có thể là bệnh nhân của ông ta chưa bao giờ nảy ra trong đầu hắn. Có lẽ, vào thời điểm họ còn cộng tác, hắn đã giới thiệu ông ta cho Quiller; nếu vậy, hắn đã quên mất, chưa bao giờ nghĩ đến việc liên kết hai cái tên của họ. Về phần mình, vị bác sĩ dường như không hề biết rằng họ đã từng quen nhau.
Nếu Quiller gọi vào bất kỳ ngày nào khác ngoài ngày hôm đó, hay nói đúng hơn là nếu gã gọi vào cùng ngày nhưng sớm hơn một giờ hoặc muộn hơn một giờ, mạng sống của gã đã được cứu. Strickland đã không đến bác sĩ trong hai năm, có thể sẽ không đến trong hai năm nữa. Nhưng ba đường thẳng đã hội tụ tại một điểm duy nhất chính xác tại nơi đó và thời điểm đó.
Strickland đã đợi đến lượt mình trong phòng chờ, rồi vào phòng khám chính để được kiểm tra. Hắn cởi áo sơ mi, nhăn mặt khi bác sĩ dùng những ngón tay kinh nghiệm ấn vào lưng hắn. "Mỗi lần tôi cố quay đầu hay vai, nó đau kinh khủng," hắn phàn nàn.
"Đó không phải là bong gân," bác sĩ trấn an hắn. "Anh chỉ bị nhiễm phong hàn ở cơ lưng thôi. Chắc đã ngồi nơi gió lùa cạnh cửa sổ mở, lưng áo ướt đẫm mồ hôi."
Strickland búng tay. "Chắc ông nói đúng! Hôm qua tôi ngồi đánh máy ngay cạnh cửa sổ mở, và lưng tôi ướt đẫm mồ hôi." Hắn mặc lại áo.
"Xoa một loại dầu nóng mạnh lên, có lẽ ngày mai sẽ hết," bác sĩ nói.
Cô trợ lý của ông thò đầu vào. "Ông Leslie Quiller muốn nói chuyện với ông qua điện thoại."
Hàm của Strickland đột nhiên cứng lại; tuy nhiên, khuôn mặt hắn không hề tỏ ra ngạc nhiên hay nhận ra.
"Ồ, cái gã mắc chứng nghi bệnh ấy à," bác sĩ nhận xét một cách khinh miệt. "Cứ hai ngày lại đau bụng một lần. Được rồi, tôi sẽ nghe máy ở đây."
Strickland đã cẩn thận quay lưng lại, giả vờ bận rộn thắt lại cà vạt trước gương, như một cái cớ để ở lại trong phòng.
Sự thay đổi trong giọng nói của bác sĩ khi ông nhấc máy cho thấy rằng, dù ý kiến riêng của ông về Quiller thế nào, gã vẫn là một khách sộp đáng để chiều chuộng. "Chào, chào," ông nói vui vẻ, "hôm nay chúng ta thế nào rồi? Cảm thấy khá hơn chưa?… Chưa à? Có vẻ có chuyện gì thế?… Anh có uống thuốc bổ dạ dày tôi kê không?… Vớ vẩn, một đứa trẻ hai tuổi cũng có thể uống mà không biết gì! Nó không mùi không màu. Anh cũng giống nhiều người, ông Quiller ạ, ngay khi biết một thứ là thuốc là anh lại né tránh nó. Cứ giả vờ nó là một ly rượu mạnh đi. Rót đầy ra một ly ngay trước khi đi ngủ, pha một phần nước tương đương, và uống một hơi dứt khoát. Bịt mũi lại nếu điều đó làm anh dễ chịu hơn."
Giọng bác sĩ cứ đều đều dỗ dành. Strickland đang thắt cái nút thứ ba trong vòng vài phút cho chiếc cà vạt bị hành hạ của mình; dường như không tài nào làm nó vừa ý hắn. Tuy nhiên, tay hắn hoàn toàn vững vàng. Ý nghĩ về việc giết người có thể được đối mặt mà không nao núng khi nó đã là một ý nghĩ quen thuộc trong hai năm qua.
Sự nói chuyện của bác sĩ đã trở nên chung chung hơn. "Tôi thấy trên báo anh vừa bán được một hợp đồng béo bở cho hãng phim. Có phải chia sẻ với ai không?… Không à? Tốt cho anh!"
Đôi mắt của Strickland nheo lại thành những khe hẹp hiểm ác khi hắn từ từ cài cúc áo gilê, rồi đến áo khoác ngoài. Vị bác sĩ, ở phía bên kia phòng, đang ngồi vắt vẻo trên một góc bàn giấy, nhìn đi hướng khác. Có lẽ ông ta cũng sẽ nhầm biểu cảm đó với một cái nheo mắt của người cận thị, nếu ông ta có nhìn thấy.
"Bà Quiller thế nào?… Ồ, bà ấy đang ở Bờ Tây à? Anh ở một mình trong căn hộ? Chà, điều đó giải thích cho chứng đau dạ dày của anh. Hãy cẩn thận với những nhà hàng anh ăn, và như tôi nói, hãy chắc chắn uống thuốc bổ này. Để nó ở nơi thuận tiện trên kệ phòng tắm, để anh không quên. Hãy cho tôi biết tình hình nhé."
Bác sĩ gác máy, quay lại, mất một lúc để điều chỉnh lại tâm trí với bệnh nhân ít quan trọng hơn đang chờ đợi sự chú ý của ông. "Để xem, chúng ta đang nói đến đâu nhỉ? À phải, xoa lưng bằng một loại dầu nóng mạnh…"
Strickland nói một cách thản nhiên: "Ông có biết loại nào không mùi không màu không? Hầu hết các loại dầu nóng đều có mùi rất nồng, tôi không muốn đi khắp nơi cả ngày với mùi như một con ngựa."
Bác sĩ nguệch vài chữ lên một tờ giấy kê đơn. "Hỏi mua cái này ở hiệu thuốc. Họ sẽ không bán cho anh nếu không có đơn của bác sĩ. Hãy chắc chắn rửa tay sau khi bôi, đừng để nó gần miệng, đó là thứ nguy hiểm. Chào ông."
Strickland trở về phòng với một chai thuốc có nhãn: "Thuốc độc—Chỉ dùng ngoài da. Thuốc giải: lòng trắng trứng và mù tạt." Hắn để nước ấm nhỏ giọt lên bên ngoài chai mà không mở nắp, bóc nhãn ra. Hắn trải nó ra mép bồn rửa và đợi cho nó khô lại. Khi đã khô, hắn châm lửa đốt nó thành một mẩu tro nhỏ.
Hắn lên đường lúc mười rưỡi với chai thuốc không nhãn trong túi áo trong. Hắn biết thói quen của Quiller cũng như của chính mình, từ thời còn cộng tác. Gã sẽ không về nhà trước mười hai giờ hoặc một giờ, hoặc nếu có về thì cũng sẽ có bạn bè đi cùng. Gã luôn đọc sách để thư giãn một giờ trước khi đi ngủ, không bao giờ đi ngủ trước ba giờ. Dù một người có thành công bề ngoài hay không, những thói quen cố hữu của anh ta không thay đổi nhiều khi đã đến tuổi trung niên.
Strickland đi dạo qua nơi Quiller ở. Hắn đã làm điều này đủ thường xuyên rồi, Chúa biết, và mỗi lần đều mang theo ý định giết người trong lòng. Nhưng ba đường thẳng chưa bao giờ hội tụ cho đến ngày hôm nay tại phòng khám của vị bác sĩ đó.
Dãy cửa sổ trên tầng ba đều tối om. Gã đang ở ngoài, tại một bữa tiệc hoặc một nhà hát, đắm mình trong thành công, tận hưởng những vòng nguyệt quế mà tài năng của Strickland, chứ không phải của chính gã, đã mang lại cho gã.
Strickland tiếp tục đi, đến thăm một người bạn của mình, ở lại một giờ, đề nghị cả hai cùng đi xem một suất chiếu "cú đêm" tại một rạp chiếu phim ở Quảng trường Thời đại, dù biết rõ người bạn đó ghét xem phim. Tuy nhiên, người bạn đồng ý đi cùng Strickland đến tận cửa rạp, để hít thở không khí trong lành trước khi về ngủ. Anh ta thấy Strickland mua vé, đi vào trong.
Strickland ở trong đó khoảng bốn mươi phút, rồi đi ra, bắt đầu đi bộ chậm rãi lên khu phố một lần nữa về phía nơi Quiller ở. Hắn giữ mẩu vé rách trong khuy áo khoác. Không có sự do dự nào trong cách hắn bước đi.
Trong các cửa sổ của Quiller có ánh sáng dịu nhẹ phát ra từ một chiếc đèn đọc sách có chao. Đó là loại tòa nhà chung cư "thân mật", một biệt thự được xây dựng lại không có người gác cửa hay thang máy, vừa thời thượng hơn vừa đắt đỏ hơn loại "lồng ấp" xây sẵn. Strickland đã gọi đến đây nhiều lần trước đây vào cùng giờ khuya này—hai năm trước, với một chiếc cặp dưới nách và niềm tin vào đồng loại trong tim. Bây giờ hắn không có cặp; hắn có một chai thuốc trong túi áo trong, và cái chết trong tim.
Hắn bấm chuông của Quiller từ tiền sảnh. Một lúc chờ đợi ngắn, rồi một giọng nói quen thuộc vang lên bên tai hắn: "Vâng?"
"Chào, Les," hắn nói vui vẻ, nhưng giữ giọng thấp cho phù hợp với giờ giấc. "Strick đây. Tôi lên một lát được không?"
"Strick? Strick là ai?" Đó là cách Quiller nói: "Tôi đã thành công, anh thì không. Tôi không quen anh nữa."
Strickland chỉ đơn giản là cảm nhận chai thuốc trong túi; nó chứa một phương thuốc cho nhiều thứ hơn là chỉ chứng đau lưng. Nó còn chữa cả sự không trung thực, sự lừa dối và những lời khinh miệt.
Cái giọng kim loại đó đó hạ cố: "Ồ vâng, John Strickland, ý anh là thế? Chà, khá muộn rồi…"
"Tôi sẽ không giữ anh lâu, chỉ muốn nói một lời chào."
Quiller không trả lời, nhưng cánh cửa bật mở. Vậy là cái chết đã ghé vào trong nhà.
Vẻ mặt gã lộ rõ sự khó chịu khi ra mở cửa trên lầu, trong một chiếc áo choàng chấm bi đắt tiền. Phía sau gã, căn phòng trông mát mẻ yên tĩnh với những bức tường màu xanh lục nhạt, một làn gió thổi qua những tấm rèm lá sách, đang cháy dở trên chiếc bàn cạnh ghế bành một điếu thuốc . Trên bàn, một bức ảnh của người vợ vắng nhà của Quiller, trong một chiếc khung giá vẽ. Gần đó là một cuốn sách, chắc chỉ để trưng, "Tôi Sinh Ra Đã May Mắn, của Leslie Quiller."
Quiller không đưa tay ra, chỉ khẽ nhích người sang một bên để cho khách vào. Nếu gã có đóng cửa, thì rõ ràng là vì nó tạo ra một luồng gió hơn là vì muốn mời Strickland ở lại lâu.
Gã nói: "Chà, dạo này cậu làm gì?" không cố gắng che giấu một chút khinh miệt trong giọng nói. "Thuốc lá không?"
"Không, cảm ơn." Không có tàn thuốc nào được để lại, không có gì tương tự. "Tôi không được thành công như cậu."
Quiller chớp mắt một cách tự mãn. "Cậu chỉ có thể trách bản thân mình thôi. Tôi đã tự tạo ra cơ hội cho mình." Gã là một trong những người may mắn chỉ có thể nhìn thấy một mặt của bất kỳ vấn đề nào—mặt của chính họ. "Tôi không chắc mình có nên tiếp cậu ở đây không," gã cả gan nhận xét, "sau cái cách cậu đến gặp các nhà xuất bản đó để cố gắng lấy nhiều tiền hơn số tiền đáng lẽ thuộc về cậu cho cuốn sách đó." Gã chỉ vào cuốn sách trên bàn. "Tôi nghe hết chuyện đó rồi, cậu biết đấy."
Mặt Strickland xanh ngắt lại, như thể hắn đang vật lộn để kiềm chế bản thân. Hắn nói nhẹ nhàng, giữ giọng thấp: "Chúng ta hãy bỏ qua chuyện cũ đi. Có lẽ chúng ta sẽ không gặp lại nhau nữa sau đêm nay." Hắn nhìn vào tay mình ngạc nhiên. "Không biết sao chúng lại bẩn thế này? Cậu có phiền nếu tôi rửa tay một phút trước khi đi không?"
"Phòng tắm ở trong kia," Quiller nói một cách bất lịch sự. "Mặc dù tôi không có thói quen để căn hộ của mình bị sử dụng như một nhà vệ sinh."
Strickland đóng cửa lại sau lưng. Hắn cầm một chiếc khăn bằng cả hai tay, mở tủ thuốc, lấy chai thuốc bổ dạ dày dễ nhận biết và đổ hết dung dịch xuống cống. Hắn đổ đầy lại từ chai thuốc trong túi, đặt cả hai vào vị trí cũ. Không mất đến một phút. Tay vẫn được quấn trong chiếc khăn bảo vệ, hắn vặn bóng đèn điện trên tường vài vòng sang phải để ngắt kết nối. Rồi khi đèn đã tắt, hắn bật công tắc vô dụng, treo khăn lên giá, và đi ra.
Quiller đang đợi bên cửa căn hộ, như một lời nhắc nhẹ. Gã thậm chí còn với tay nắm cửa và mở nó ra khi Strickland xuất hiện trở lại.
"Tôi đoán điều mang cậu đến đây là đọc được tin bán bản quyền phim của ‘Sinh Ra Đã May Mắn’," gã nói một cách mỉa mai. "Tất cả những người tôi từng quen bây giờ sẽ xuất hiện, cố gắng moi một thứ gì đó từ tôi. Cậu muốn mượn tiền à, phải không? Tôi cho rằng cậu cũng có quyền được một chút gì đó; dù sao thì cậu cũng đã đánh máy nó." Gã đi ngang qua phòng, lấy một chiếc ví ra khỏi ngăn kéo. "Đây—đây là năm mươi đô la. Đừng giả vờ là cậu sẽ cố trả lại. Hãy hiểu một điều, điều này chấm dứt mọi nghĩa vụ được cho là của tôi đối với cậu một lần và mãi mãi. Cầm lấy hoặc thôi."
Mặt Strickland không còn trắng bệch nữa. Những lời châm chọc của Quiller dường như không còn có thể làm hắn tổn thương. Hắn cầm lấy. Dù sao thì, phòng khi họ nghi có án mạng, đây là một động cơ được bày sẵn ra đó như mồi nhử. Năm mươi đô la mất tích khỏi căn hộ; một tên trộm vặt nào đó…
"Tạm biệt, Quiller." Hắn nói chậm rãi, nhấn mạnh, mỉm cười khi nói. Đôi mắt hắn sáng lên một cách tàn nhẫn.
Quiller đóng cửa lại sau lưng hắn. Hắn đứng bên ngoài cửa một phút, đầu cúi xuống, lắng nghe tiếng bước chân của chủ nhà xa dần vào sâu trong buồng. Hắn vẫn mỉm cười khi quay người và nhẹ nhàng đi xuống cầu thang trải thảm.
Không ai thấy hắn rời đi, cũng như không ai thấy hắn bước vào. Hắn có thể là chính bóng ma của cái chết, đến và đi mà không ai hay biết. Hắn đã là—bóng ma của một cái chết vẫn chưa đến.
Cách đó vài khu phố, hắn dừng lại một phút để đào một cái lỗ nhỏ trên đống tro trong một thùng rác đang chờ xe chở đi, nhét năm mươi đô la vào, lấp lại. Sau đó, ở một nơi xa hơn nữa, tiếng kính vỡ lanh canh khi một chai rỗng nhỏ va vào lề đường, bị khều bằng mũi giày xuống miệng cống. Và cùng lúc đó, như thể có một tín hiệu đã được sắp đặt trước, ở nơi hắn vừa rời đi, có tiếng kính vỡ khác trong một phòng tắm tối om, khi một cơ thể ngã nặng xuống sàn, quằn quại không kiểm soát được một hai khoảnh khắc, cứng đờ, rồi nằm im.
HẾT
3
Sau khi viết liền tù tì khoảng năm tiếng đồng hồ, và suýt ngã khỏi ghế hai lần, tôi phải nghỉ một phút đi xuống nhà uống một tách cà phê và hít thở chút không khí, để lấy lại tinh thần trước khi tiếp tục. Dải băng máy chữ của tôi cũng đã mòn hết rồi, cần thay từ lâu, đã gây cho tôi khá nhiều phiền phức. Tôi quyết định tốt hơn hết là đi mua một cái mới luôn thể.
Tôi luôn mua chúng trực tiếp từ công ty sản xuất máy chữ của mình. Họ có một văn phòng chi nhánh và phòng trưng bày cách khách sạn vài khu phố. Bằng cách đó tôi chắc chắn mua được hàng mới. Tôi đã học được từ kinh nghiệm rằng mua chúng ở những cửa hàng văn phòng phẩm nhỏ trong khu phố là một sai lầm; chúng được trữ trong kho quá lâu và mực trong đó bị khô đi.
Người bán hàng nhận ra tôi và biết chính xác tôi muốn gì mà không cần tôi phải hỏi. "Toàn màu đen cho một trong những chiếc máy xách tay của chúng tôi, phải không?"
"Anh đã bao giờ thấy tôi mua loại nào khác chưa?" tôi nói một cách mệt mỏi. "Nhớ chắc chắn là hàng mới nhé." Tôi luôn nói thế, như một bà nội trợ khó tính đi mua cà chua.
"Lô hàng hoàn toàn mới, vừa về hôm nay," anh ta trấn an tôi. "Thậm chí còn chưa được phân phối lên kệ." Anh ta đi vào phía sau, với tay vào một thùng các-tông khổng lồ đã mở nắp, mang lại cho tôi một trong những chiếc hộp thiếc tráng men nhỏ mà công ty dùng để đựng chúng. Tôi bỏ nó vào túi mà không nhìn; người ta gần như có thể ngửi thấy mùi mực mới qua cả hộp và lớp giấy bạc bọc bên ngoài.
Rồi khi tôi trở về, và đã tháo cuộn băng cũ ra khỏi máy, tôi mở cái mới và kinh tởm nhận ra rằng thằng ngốc trẻ tuổi đó đã đưa cho tôi đúng cái loại tôi không muốn, một cuộn nửa đỏ nửa đen. Tôi chưa bao giờ mua một cái nào như thế, trong suốt những năm anh ta phục vụ tôi, và anh ta biết điều đó! Người ta chẳng bao giờ dùng phần màu đỏ, và nếu bộ phận trượt của máy chữ của bạn lung lay như của tôi, bạn có thể sẽ có những chữ hoa và nét trên bị pha màu, một bản thảo trông như một mớ hổ lốn.
Tôi biết anh ta không cố tình làm vậy, chuyện xảy ra vì lô hàng chưa được phân loại và anh ta đã không buồn nhìn để chắc chắn. Tôi đã quá mệt mỏi vì viết cả đêm để đi cả quãng đường đó quay lại đổi, và dù sao thì tôi cũng có hạn chót cho câu chuyện, và còn phải ra bưu điện, nên tôi cứ thế lắp nó vào cuộn và tiếp tục, giờ thì tôi đã mang nó về rồi. Tôi ném cái hộp thiếc nhỏ một cách bực bội vào một góc, không buồn vứt nó đi.
Tôi hoàn thành nó vào khoảng năm giờ chiều hôm đó, còn một giờ dự phòng trước giờ đóng cửa của bưu điện. Căn phòng mù mịt khói thuốc, râu tôi đã mọc lún phún, áo sơ mi dính vào lưng như một miếng gạc ướt, và những tờ giấy trắng vàng nằm la liệt khắp sàn như thể vừa có một trận bão tuyết. Tôi gõ ra chữ "Hết", từ yêu thích của tất cả những tay viết lách, thu thập những tờ giấy trắng và vàng rời rạc, và xếp chúng ngay ngắn thành hai chồng.
Tôi không đi gửi nó ngay, tự cho mình vài phút để nghỉ ngơi trước, và gọi xuống dưới nhà xin một tờ báo trong lúc chờ đợi. Họ gửi cho tôi một ấn bản bốn giờ. Trên trang ba, có dòng này:
NGƯỜI NỔI TIẾNG ĐƯỢC TÌM THẤY CHẾT TRONG HOÀN CẢNH KỲ LẠ
Hilary Robbins được tìm thấy đã chết trong phòng tắm căn hộ của mình vào sáng sớm nay bởi một người phụ nữ giúp việc theo ngày...
Ông Robbins, người đang bị bệnh dạ dày, được phát hiện đã uống một lượng lớn dầu xoa bóp cực độc mà ông đã nhầm với thuốc bổ trong bóng tối...
Cảnh sát có khuynh hướng nghi ngờ có hành vi tội ác. Họ ngay lập tức loại trừ khả năng tự tử khi biết rằng chỉ một ngày trước đó, ông Robbins đã ký một hợp đồng rất béo bở với một hãng phim và được mong đợi sẽ có mặt ở California vào đầu tháng. Việc này có thể không chỉ đơn giản là một tai nạn đã được gợi ý bởi một số tình tiết khó hiểu trong vụ án. Dầu xoa bóp nằm trong chai nguyên bản dành cho thuốc bổ, và loại thuốc sau đã biến mất hoàn toàn. Ánh sáng phòng tắm, việc nó không hoạt động đã góp phần vào tai nạn, khi kiểm tra được phát hiện không phải bị hỏng như đã tưởng mà đã bị cố tình can thiệp, như thể để dẫn ông Robbins đến cái chết...
Một lượng tiền nhỏ đã bị mất khỏi căn hộ...
Khi đọc xong, tôi chỉ lắc đầu, và có lẽ trông có vẻ tự mãn. Hệt như trong truyện của mình, tôi tự nhủ. Người ta vẫn nói sự thật đôi khi còn lạ lùng hơn cả tiểu thuyết. Lần này thì tiểu thuyết đã bắt kịp sự thật. Tiểu thuyết ư?
Tôi có một lò sưởi trong phòng. Mùa này không phải mùa đốt lửa, nhưng tôi chuẩn bị một đống lửa nhỏ, chỉ với vài thanh củi mỏng còn sót lại từ mùa đông trước để trang trí. Ném vào một hai tờ báo vo tròn lên trên, và nhóm cho nó cháy. Khi lửa đã yếu đi, chỉ còn tỏa ra một luồng hơi nóng, tôi cầm bản thảo trắng như tuyết vừa hoàn thành, giữ một góc và hơ nó trên lửa. Các mép ngoài từ từ ngả vàng vì sức nóng phản chiếu, hệt như chúng sẽ bị ố vàng theo thời gian nếu cứ vứt lăn lóc trong phòng một thời gian dài. Bản sao thì đã trên giấy vàng sẵn rồi, nên cách đó không hiệu quả. Tôi lấy một vốc đất từ hộp trồng cây ngoài cửa sổ, vò nát thành bụi mịn, rắc vào giữa các trang, chà chúng vào nhau, rồi thổi sạch phần còn lại. Nó để lại một lớp bụi mờ xám xịt.
Tôi nhét bản gốc vào một phong bì manila, đi ra ngoài và gửi nó. Wayne sẽ nhận được câu chuyện của mình vào sáng sớm mai.
Tôi không trở về nữa. Từ bưu điện, tôi vào thẳng một quán bar, nán lại đến bốn giờ, giờ đóng cửa theo luật, rồi về nhà say khướt. Nhiều nhà văn uống rượu giữa các câu chuyện. Tôi thì chưa bao giờ, tuy nhiên; tại sao bây giờ tôi lại làm thế?
Larry vỗ một tờ báo lá cải màu xanh nhạt, một tờ khổ lớn màu trắng lại với nhau. Gã ngửi thấy mùi rượu của tôi, cười toe toét. "Thỉnh thoảng tôi cũng muốn nghỉ một đêm như vậy." Viên cảnh sát Derndorf không có ở đó, các trụ giao thông đã được lăn vào đúng giờ tối nay.
Hamilton lại đang cặm cụi trên mấy cuốn sổ cái của mình. Gã ngước lên khi tôi lảo đảo bước vào, cười một cách hiền lành. "Anh bạn làm gì thế?"
Tôi nghĩ gã muốn nói đến việc say xỉn. "Có luật nào cấm đâu, phải không?" tôi đáp trả.
"Không, ý tôi là có vài người đến tìm anh lúc đầu tối. Tự xưng là thám tử." Gã nói thẳng ra như thế bởi vì, giống như mọi người khác biết tôi, gã biết đó không thể là chuyện gì nghiêm trọng.
Ấy thế mà, khi nghe điều đó, dù không thể đứng thẳng, tôi bỗng nhiên tỉnh táo hẳn. "Họ muốn gì?"
"Họ không nói. Bảo là sẽ thử vận may vào ngày mai. Tôi bảo họ là anh chẳng bao giờ về trước nửa đêm."
Tôi nói: "Chắc là về gã Hilary Robbins này. Anh đọc về nó chưa? Anh biết đấy, tôi từng quen hắn." Tôi đưa cho gã hai tờ báo. Trên tờ lá cải nó đã thành một cái tít giật gân rồi, như dự đoán. Nhưng ngay cả trên tờ khổ lớn, nó cũng đã leo lên trang nhất, cột thứ ba từ trái sang. Bây giờ đó là một vụ giết người, họ chắc chắn như vậy.
"Không đùa chứ?" gã nói một cách thích thú. Gã đọc ngấu nghiến, ngước lên. Lưỡi tắc một tiếng "chậc-chậc-chậc". "Biết gì không cơ chứ?" Câu hỏi hoàn toàn là tu từ. Rồi với sự quan tâm thân thiện: "Này, tôi hy vọng họ không bắt đầu làm khổ anh vì chuyện đó. Nếu họ quay lại vào buổi sáng, tôi có nên bảo họ là anh không có ở nhà không?"
"Tuyệt đối không," tôi nói dứt khoát. "Anh cứ cho họ lên thẳng chỗ tôi. Tôi gặp họ càng sớm, mọi chuyện càng nhanh chóng kết thúc."
Lên lầu tôi bật đèn, đóng cửa. "Không thể nào là một cuộc điều tra chính thức được," tôi tự trấn an, "nếu không họ đã đợi ở dưới lầu cho tôi về, chứ không hoãn lại đến ngày mai." Tôi cởi quần áo, tắt đèn, nằm thẳng ra trên giường, chỉ mặc đồ lót. Tôi châm một điếu thuốc, khoanh tay thoải mái dưới đầu, bắt chéo mắt cá chân. "Cái rắc rối với hầu hết những kẻ giết người này," tôi lẩm bẩm suy tư, "là chúng đều thuộc hạng hạ đẳng, chỉ hơn những kẻ thiểu năng một chút. Nếu một người thông minh mà dấn thân vào loại chuyện đó, anh ta sẽ biết cách giữ mình sau đó. Thám tử và quan chức cảnh sát trung bình chỉ hơn kẻ giết người một bậc, nói cách khác là chính họ cũng thuộc loại bán-bình-thường, một kẻ giết người thực sự thông minh sẽ có thể thoát tội với một tay bị trói sau lưng." Đốm lửa đỏ của điếu thuốc nháy mắt với tôi một cách tinh quái trong bóng tối.
Tiếng gõ cửa của họ đánh thức tôi khi đang chợp mắt vào lúc chín giờ ba mươi sáng hôm sau. Bắt đầu công việc sớm. Tuy nhiên, tiếng gõ cửa khá nhẹ nhàng, không xấc xược hay hung hăng. Tôi biết ngay mình có thể đợi ai, khoác một chiếc áo choàng tắm, mở cửa cho họ.
Trông họ không tệ. Tôi chưa bao giờ gặp những người chuyên nghiệp trước đây, mặc dù tôi sống bằng nghề viết về họ. Một điều, tôi ngạc nhiên về việc cả hai đều trẻ và ăn mặc chỉnh tề đến thế. Một người chỉ hơn một đứa trẻ một chút; ý tôi là, tất nhiên, một đứa trẻ ba mươi tuổi. Gương mặt đẹp, trung thực, cởi mở, chưa bị công việc làm cho chai sạn. Người kia có phần lớn tuổi hơn, nhưng cũng không phải là một kẻ thô lỗ. Không có một chiếc mũ phớt hay một điếu xì gà nào giữa hai người họ.
"Ông Tucker? Chúng tôi từ Trụ sở Cảnh sát." Họ không làm cái trò khoe huy hiệu đó. Tôi được cho là một quý ông, người tin lời của những quý ông khác.
"Ồ vâng, tối qua các vị đã đến đây họ nói với tôi. Xin lỗi tôi không có nhà. Mời vào, các vị nhé?"
"Chúng tôi có làm ông thức giấc không?" người trẻ hơn nói một cách thân thiện. "Xin lỗi đã đột nhập như thế này." Thật là một cuộc gặp gỡ thân tình.
Người lớn tuổi hơn lắc đầu một cách ghen tị. "Các nhà văn các ông có một cuộc sống sung sướng. Tôi nghĩ tôi sẽ trở thành một nhà văn." Anh bạn của ông ta khoằm khuỷu tay vào ông và nói đùa: "Ông thậm chí còn không viết được tiếng Anh cho ra hồn." Cả ba chúng tôi đều cười.
"Chắc là quá sớm để uống một ly nhỉ?" tôi đề nghị một cách hiếu khách.
Vâng, đúng là quá sớm, họ thừa nhận, và dù sao thì cũng không phải lúc họ đang làm nhiệm vụ. Tuy nhiên, mỗi người họ đều nhận một điếu thuốc. Người trẻ hơn, Bradford, châm diêm, cẩn thận thổi tắt sau lần sử dụng thứ hai và quẹt một que khác.
"Chà, chúng tôi sẽ giải quyết việc này nhanh nhất có thể, ông Tucker. Dù sao thì cũng chỉ là một thủ tục thôi. Ông có biết một Hilary Robbins, phải không?"
"Vâng," tôi nói, nhìn thẳng vào mắt anh ta, "và tôi đã đọc rất nhiều về ông ta kể từ chiều hôm qua."
"Biết khá rõ ông ta không?"
"Theo kiểu công việc, chưa bao giờ giao du xã hội."
"Lần cuối ông gặp ông ta là khi nào?"
Bradford khéo léo định hình lại câu hỏi, khi thấy tôi chuẩn bị tỏ thái độ. "Gần đây ông có gặp ông ta không?"
"Lâu lắm rồi. Để xem, khoảng hai năm trước, tôi đoán, là lần cuối cùng. Anh biết đấy, tôi viết thuê cho ông ta. Ông ta đưa cho tôi một khoản tạm ứng để giữ chân, và tôi được chia tiền bản quyền. Như một kẻ ngốc, tôi cứ thế làm mà không đòi hỏi một hợp đồng; tôi đang túng quẫn, và có phần bị danh tiếng của ông ta làm choáng ngợp. Các nhà xuất bản chuyển séc cho ông ta, và tôi chẳng bao giờ thấy một xu nào nữa. Ông ta behaupt là cuốn sách thất bại, và các nhà xuất bản không cho tôi xem bất kỳ bảng kê doanh thu nào. Tôi chỉ coi đó là một bài học kinh nghiệm, và tránh xa ông ta từ đó."
Bradford cười một cách xấu hổ, gãi đầu. "Tôi nghe hết các từ," anh ta thừa nhận, "nhưng một nửa trong số đó tôi không hiểu."
Tôi giải thích viết thuê là gì, và tiền bản quyền. Họ tỏ ra hứng thú đến nỗi dường như quên mất điều gì đã đưa họ đến đây.
"Ông ta khá là một tay bịp bợm," tôi kết luận, "sau này tôi mới biết. Không viết được một chữ, nhưng lại tự xây dựng cho mình một sự quảng cáo rùm beng và trở nên giàu có. Tuy nhiên, tôi không biết ai lại có lý do để đi xa đến mức giết ông ta. Chắc phải là một tên trộm nào đó mà ông ta đã bất ngờ bắt gặp— Theo tờ Daily Views thì một khoản tiền đáng kể đã bị mất."
Bradford nói: "Cái mớ giấy vệ sinh có hình minh họa đó luôn thêm ít nhất ba số không vào bất kỳ số tiền nào. Năm mươi đô la đã bị mất. Đó là điều làm chúng tôi nghi ngờ động cơ là cướp của. Anh thấy đấy, động cơ không khớp với phương pháp. Vụ giết người này được thực hiện bởi một người thông minh, và những người thông minh không giết người vì năm mươi đô la. Nếu đó là một số tiền lớn hơn, thì có thể. Hoặc cùng số tiền đó đi kèm với một vụ giết người được sắp đặt một cách ngu ngốc, thì lại có thể. Nhưng trong trường hợp này, hai yếu tố đó không cân bằng."
"Ý anh ta là," người kia cười toe toét, "đó là một vụ án mạng triệu đô cho vài đồng bạc lẻ."
Tôi tiễn họ ra cửa. Trên đường ra, Bradford phát hiện một số tạp chí cũ của Wayne nằm trên bàn, thấy tên tôi trên bìa, lật xem một cách thích thú. "Chà, tôi muốn đọc một cái gì đó ông viết một lúc nào đó," anh ta gợi ý một cách lộ liễu.
"Cứ lấy đi," tôi nói, cảm thấy hãnh diện. Tôi thấy buồn cười trong một phút, một thám tử lại muốn đọc truyện trinh thám, nhưng tôi cố gắng giữ vẻ mặt bình tĩnh. "Xin lỗi tôi không thể giúp gì thêm cho các vị. Nếu tôi có thể giúp đỡ thêm bất kỳ điều gì, đừng ngần ngại quay lại."
Tôi đóng cửa và trở lại giường. "Bây giờ, nếu tôi là kẻ giết người," tôi cười toe toét với trần nhà, "đó chính xác là cách tôi sẽ xử lý mọi chuyện."
Ba mươi sáu giờ trôi qua trong im lặng. Điện thoại reo lúc mười giờ tối hôm sau. "Có ông Bradford đến tìm ông, để trả lại một cuốn sách hay gì đó," cô gái trực tổng đài thông báo một cách kiêu kỳ, như thể ngay cả cô ta cũng ngửi thấy đó chỉ là một cái cớ để anh ta có thể lên phòng tôi ngồi sưởi ấm.
"Cho anh ta lên ngay," tôi nói vui vẻ. Tôi sẽ cho phép bất kỳ ai khác, tại sao lại không cho anh ta?
Anh ta đi một mình. Tôi hỏi, "Đây là việc công hay chỉ là việc riêng?"
"Không, bây giờ tôi đang trong thời gian riêng của mình," anh ta cười. "Xin lỗi đã đột nhập như thế này. Này, câu chuyện của ông hay thật! Tôi đã thức nửa đêm qua để đọc nó…"
"Anh thích đoạn chiếc xe treo lơ lửng trên vách đá bằng hai bánh không?"
Anh ta mất một khoảnh khắc để trả lời, đánh giá tôi. "Đoạn đó không có trong câu chuyện này," anh ta nói. Nhưng có một dấu hỏi lơ lửng đằng sau nó. Chà, dù sao thì anh ta cũng đã thắng tôi trong ván này, đã dùng trí thông minh của mình. Nhưng tôi vẫn nghe thấy dấu hỏi không lời đó, vậy nên tôi đã tìm ra điều mình muốn; anh ta chưa đọc câu chuyện, chỉ muốn có một cái cớ để quay lại.
"Anh có thể giữ nó," tôi nói, "họ cho tôi các bản tặng."
"Tôi đã hy vọng," anh ta nói một cách duyên dáng, "tôi có thể đổi nó lấy một cái mới."
Có một cái gì đó dễ mến ở gã này. Một nhà văn thích nghĩ rằng mình cũng có người hâm mộ.
"Uống một ly nhé," tôi nói.
"Không phiền đâu."
Tôi pha cho anh ta một ly cocktail cực mạnh, để hạ thấp chỉ số IQ của anh ta một chút; nó quá cao so với ý tôi.
Ngượng ngùng ngồi xuống, anh ta hai chân dang ra, như một người đang cố gắng tỏ ra lịch sự hết mức. Tôi nói: "Anh hẳn có thể cung cấp cho tôi những ý tưởng hay. Anh biết đấy, những kinh nghiệm của chính anh…"
"Không đâu," anh ta nói giọng khiêm tốn, "ông không thể dùng được đâu. Chẳng có gì giống như trong những tạp chí ông viết. Chỉ là những công việc thường lệ. Báo cáo vào, báo cáo ra, đi đây, đi đó." Anh ta uống một ngụm, ném cho tôi một cái nhìn hối lỗi qua vành ly, vì độ mạnh của nó, và uống cạn. "Ông lấy ý tưởng từ đâu vậy?"
"Tôi tự nghĩ ra."
Anh ta kinh ngạc, như một cậu học trò; lắc đầu một cách thán phục.
"Có gì mới về vụ Robbins không?"
Anh ta không muốn nói về chuyện đó, anh ta muốn nói về tôi. "Để tôi quên nó đi nửa tiếng được không?" Rồi chỉ vào một chồng bản sao khổng lồ, "Ý ông là ông đã viết hết tất cả những cái đó à?"
"Tất cả, không thiếu một cái nào," tôi trấn an anh ta với vẻ nghiêm túc giả tạo.
Anh ta nhặt cái trên cùng lên. "Tôi có làm phiền không nếu tôi xem qua một vài cái? Ông cứ làm việc của mình, tôi sẽ không làm phiền đâu. Tôi không thường có cơ hội đọc."
"Cứ tự nhiên," tôi mời. Câu chuyện của Wayne nằm ở dưới cùng của chồng giấy, phù hợp với "tuổi" của nó.
Tôi rót thêm một ly cho cả hai, ngồi thổi những vòng khói lười biếng trong không khí. Anh ta là một gã khá dễ chịu khi ở cùng, thật đấy; có thể sẽ là một người bạn cùng phòng tốt. Tôi gần như quên mất anh ta đang ở trong phòng với tôi. Một hai lần anh ta cười khúc khích với một cái gì đó anh ta đang đọc. Tôi nháy mắt với không ai cả, bằng con mắt xa anh ta nhất. Anh ta đã hoàn toàn bị cuốn hút, quên cả thế giới. Chẳng có một âm thanh nào trong phòng, chỉ có hai tiếng khì khì hài lòng của anh ta, những vòng khói thuốc, và tiếng sột soạt của những trang giấy khi anh ta lật chúng. Bây giờ nếu đây là một cuộc truy lùng trong một trong những câu chuyện tôi viết, sẽ có tiếng súng nổ, những xác chết ngã rạp, cảnh tượng sẽ hỗn loạn như địa ngục trần gian. Nhưng chẳng có một âm thanh nào trong phòng. Vậy nên đây không phải là một cuộc truy lùng.
Sau gần một giờ, anh ta đột nhiên tỉnh táo trở lại, như thể vừa nhớ ra mình đang ở đâu. Anh ta đứng dậy, hỏi mấy giờ rồi. "Thật không thể tin được!" anh ta kinh ngạc. "Tôi mải mê đọc những thứ đó, quên cả trời đất! Tôi thích câu chuyện về gã bị trói trên đường ray xe lửa."
"Vâng, tôi nhận được một vài lá thư hay về câu chuyện đó," tôi thừa nhận. Tôi tiễn anh ta ra cửa. "Hy vọng tôi không làm phiền."
"Không hề. Cứ quay lại, bất cứ khi nào anh muốn." Tôi có cảm giác anh ta sẽ làm vậy, dù tôi có mời hay không. Chà, tôi không có lý do gì để phiền lòng về việc anh ta thường xuyên ghé thăm tôi, vậy tại sao tôi phải tạo ấn tượng rằng tôi có?
Anh ta đi, tôi liếc nhìn chồng bản sao. Anh ta đã đọc ba hoặc bốn cái trên cùng, đọc được nửa đường đến câu chuyện của Wayne. Tôi có thể đã lấy nó ra khỏi chồng giấy, giấu rồi vứt nó đi. Tôi mỉm cười và lắc đầu nhẹ. Làm vậy sẽ là một nước đi sai lầm. Đó sẽ là hành động của một kẻ ngu ngốc, không phải của một người thông minh. Đó sẽ là hành động của một kẻ có tội, không phải của một người vô tội. Đó sẽ là hành động của một kẻ giết người, không phải của một người quan sát khách quan.
Tôi đã quan sát anh ta một cách tò mò qua những vòng khói lười biếng, để xem anh ta đọc vì mục đích đọc, hay đọc để tìm hiểu điều gì đó. Anh ta không bỏ qua trang nào, không đọc vội vàng. Anh ta đã đọc vì mục đích đọc.
"Tôi đoán thỉnh thoảng họ cũng cần thư giãn, giống như bất kỳ ai khác," tôi tự nhủ. Mặc dù tôi đã nghe đâu đó nói rằng những người giỏi thì không bao giờ làm vậy.
Lại một khoảng thời gian hai mươi bốn giờ trôi qua. Trong khi đó, trên báo, vụ án Robbins đang mất dần sức nóng. Tờ lá cải đã hoàn toàn mất hứng thú, bỏ nó đi, vì không có khía cạnh tình ái nào để nó có thể bám vào. Tờ báo khổ lớn đẩy nó xuống trang cuối, vì không có diễn biến mới.
Khoảng tám giờ tối hôm đó, nửa giờ sau khi tôi đi ăn về, có tiếng gõ cửa. "Anh ta càng ngày càng thân thiết," tôi tự nhủ, "lên thẳng mà không cần thông báo." Tuy nhiên, khi tôi mở cửa, đó lại là người kia, Schuyler. Bradford không đi cùng ông ta.
"Việc công à?" tôi hỏi ngắn gọn.
"Nào, không có ý xúc phạm, ông Tucker. Tôi chỉ muốn hỏi ông vài câu hỏi thường lệ về các hoạt động của ông vào tối thứ Ba. Chỉ để ghi vào hồ sơ, có thể nói vậy."
"Điều đó có nghĩa là các vị đang để mắt đến tôi hay sao?" Tôi mở toang cửa. "Vào đi, nếu các vị cảm thấy như vậy!"
"Nào, ông đang có thái độ sai lầm," ông ta cố gắng xoa dịu tôi. "Ông không phải là người duy nhất chúng tôi hỏi, chúng tôi hỏi tất cả mọi người. Chúng tôi luôn làm vậy, trong một vụ án như thế này." Rồi với một cái nhìn tinh ranh trong mắt, "Nếu ông không muốn trả lời, thì tùy ông."
"Đó là dành cho những người có điều gì đó để che giấu," tôi giận dữ cho ông ta biết. "Hỏi đi! Các vị muốn biết điều gì?"
"Chà…" Ông ta nhún vai một cách hòa giải, "Chỉ là ông đã làm gì vào buổi tối hôm đó. Không cần phải tức giận. Chỉ là một thủ tục thôi, tôi nói cho ông biết."
"Thủ tục hay không, tôi không thích cái ngụ ý này. Được rồi, đây. Tôi ở trong phòng cả ngày, cố gắng viết. Nó không nhúc nhích. Anh phải là một nhà văn mới biết điều đó có nghĩa là gì. Tôi đang phát điên dần. Tôi đi ra ngoài, ăn tối, và thử lại khi tôi trở về. Cuối cùng tôi bỏ cuộc và nghỉ hẳn. Tôi lại ra ngoài—đó là khoảng mười giờ ba mươi—và đi dạo một quãng dài. Tôi ghé vào nhà một người bạn sống ở khu Bảy mươi hai—tên là Howell—và ngồi nói chuyện khoảng một giờ. Tôi rời nhà anh ta lúc mười hai giờ. Tôi có thói quen thức khuya, tôi không quen đi ngủ sớm như vậy. Từ đó tôi đi xem suất chiếu nửa đêm tại Paramount, bắt đầu lúc mười hai giờ, và ra về khi buổi chiếu kết thúc, lúc hai giờ. Tôi ghé vào uống một tách cà phê, và ngồi trầm ngâm về câu chuyện của mình thêm khoảng một tiếng rưỡi nữa. Khi tôi trở về đây thì đã gần bốn giờ. Nếu giờ giấc của tôi có vẻ kỳ lạ với anh, thì tôi đã giữ thói quen này ít nhiều trong nhiều năm qua…"
Trước khi ông ta kịp nói gì, điện thoại reo và Bradford được thông báo. "Cho anh ta lên," tôi nói, và chờ đợi để xem phản ứng. Vẻ mặt ông ta thay đổi khi thấy Schuyler. Ông ta nói, "Anh làm gì ở đây?" không mấy thân thiện.
"Kiểm tra lại hoạt động của tôi vào đêm Hilary Robbins bị giết," tôi xen vào.
Anh ta cứ nhìn Schuyler, không nhìn tôi, như thể đây chỉ là chuyện giữa hai người họ. Anh ta nói, "Đó có phải là lệnh của anh không?"
Viên cảnh sát lớn tuổi hơn nói, "Có lẽ không phải nói thẳng ra như vậy, nhưng anh cũng biết rõ như tôi…"
Bradford bắt đầu nổi cáu như một con chó con. Đó không phải là một vở kịch; một sợi gân bên cổ, dưới tai anh ta, bắt đầu giật giật. Anh ta nói một cách hậm hực: "Tại sao anh không để yên cho người này? Chúng ta đến gặp anh ta ban đầu để nhờ giúp đỡ tái tạo lại lai lịch của Robbins. Chuyện kết thúc ở đó. Anh ta đã không gặp Robbins trong hai năm. Có một thứ gọi là quá sốt sắng, Schuyler ạ."
Thám tử nào lại thích bị nói như vậy, trước mặt một người ngoài? Đôi mắt của Schuyler đanh lại như đá. Ông ta nói nửa miệng: "Tôi có giẫm lên chân anh không, hả? Từ khi nào mà anh lại che chở cho anh ta? Nó đáng giá bao nhiêu với anh?"
Bradford bước nhanh vào. "Anh nói gì?" Cánh tay anh ta móc ra và đưa lên, và người đàn ông kia loạng choạng, vai ông ta đập vào cửa với một tiếng uỵch. "Tôi không chấp nhận điều đó từ bất kỳ ai!"
Tôi nhảy vào, chen giữa hai người họ, khuỷu tay giơ lên. "Nếu chuyện tồi tệ đến mức đó, thì xuống dưới lầu mà giải quyết. Không phải ở đây trong phòng tôi. Tôi là một người dễ bị kích động," tôi nói thêm với một nụ cười hòa giải. Tôi nói với Bradford, một cách hợp lý: "Tôi không phiền trả lời câu hỏi của anh bạn anh, tôi chẳng có gì để giấu." Và với Schuyler, cũng với sự hợp lý tương tự: "Nhưng anh không nên nói những điều như vậy, trừ khi anh có thể chứng minh. Bỏ qua tôi đi—đó có vẻ là một điều khá tệ để buộc tội một đồng đội."
"Ai hỏi ý kiến vớ vẩn của anh?" là tất cả những gì tôi nhận được từ người sau cho những nỗ lực của mình. Schuyler bước sang một bên, mở toang cánh cửa sau lưng, quay người và đi ra. "Không mất một phút để tìm ra tôi có vượt quá thẩm quyền của mình hay không!"
"Đúng vậy, chúng ta nên giải quyết dứt điểm chuyện này một lần và mãi mãi," Bradford đồng ý một cách u ám. "Tôi sẽ xuống với anh và gọi cho sếp ngay bây giờ."
Tôi đóng cửa lại sau lưng họ và cười vang khắp phòng. "Nếu tôi là kẻ giết người thực sự trong vụ này, thì bây giờ tôi đang ở một vị trí quá đỗi thuận lợi!" tôi khúc khích. "Một người bênh vực tôi chống lại người kia, nếu đó không phải là điều kỳ quặc nhất tôi từng nghe!"
Việc Schuyler có thể nảy sinh mối thù cá nhân với tôi do cuộc cãi vã nhỏ này không làm tôi lo lắng chút nào. Ông ta chẳng có gì để buộc tội tôi, ông ta có thể làm gì tôi chứ? Cố gắng hết sức để gài bẫy tôi, hay thậm chí là dựng chuyện? Cứ để ông ta thử, và xem ông ta đi được bao xa. Tôi gần như không thể bị bắt lỗi.
Còn về Bradford, rất có thể lời bóng gió đó sẽ chấm dứt những "cuộc viếng thăm xã giao" mà anh ta đã dành cho tôi. Điều đó cũng ổn với tôi. Anh ta không làm phiền tôi, nhưng tôi cũng có thể sống tốt mà không cần chúng.
Nhưng không. Anh ta quay lại trong vòng nửa giờ, một mình. "Chà," anh ta hứa, "ông sẽ không bị làm phiền như thế nữa đâu. Anh ta đã nhầm lẫn, thế thôi. Anh ta không có quyền xông vào như vậy, cái gã vụng về, lóng ngóng đó!"
Tôi nắm bắt được từ đó. "Vụng về? Tại sao lại gọi là vậy? Có sự sắp đặt nào đó mà anh ta đã phá hỏng à?"
Anh ta giơ cả hai tay về phía tôi, lòng bàn tay hướng ra ngoài. "Không có sự sắp đặt nào liên quan đến ông, nếu đó là ý ông muốn nói," anh ta trấn an. "Ông lấy ý tưởng đó từ đâu? Ông hoàn toàn không liên quan đến vụ án. Chắc tôi dùng từ không đúng."
Tôi tự hỏi liệu anh ta có hay không.
"Uống không?" tôi hỏi.
Anh ta cười một cách tự ti. "Tôi đang biến thành một kẻ ăn bám chính hiệu. Được thôi, nhưng không mạnh như lần trước."
Thì ra anh ta cũng để ý, nhỉ?
Lần này anh ta không đọc sách. Ngồi tán gẫu một lúc về chuyện này chuyện kia, rồi rời đi sau khoảng nửa giờ. Câu chuyện của Wayne vẫn nằm yên ở vị trí cũ, dưới cùng của chồng giấy.
"Nếu đó là một kiểu dàn dựng nào đó," tôi tự nhủ sau khi anh ta đi, "thì anh ta chắc chắn đang rất từ tốn." Nhưng tôi nhận ra rằng việc tôi chấm dứt các cuộc gọi của anh ta bây giờ sẽ trông rất kỳ lạ. Nếu tôi định lạnh nhạt với anh ta, tôi đáng lẽ phải làm điều đó ngay từ đầu. Bây giờ khi tôi đã từng chào đón anh ta, tôi không có lý do gì để không tiếp tục làm vậy. Anh ta khá dễ mến, đã chiếm được cảm tình của tôi; và để giữ đúng vai diễn, tôi phải đánh giá anh ta hoàn toàn dựa trên tính cách, và không có gì khác. Dựa trên cơ sở đó, anh ta có thể chấp nhận được, thậm chí còn hơn nhiều người bạn tôi đã quen trong nhiều năm, và tôi không có lý do gì để xa lánh anh ta. Tóm lại, cho đến khi vụ án mờ ám ở phía sau đã đưa chúng tôi đến với nhau được giải quyết một lần và mãi mãi, tay tôi bị trói, tôi không phải là một người tự do hành động trong mối quan hệ với anh ta. Ít nhất, không phải là không gây ra một nốt nhạc lạc điệu.
Anh ta ghé qua một cách tình cờ vào lúc gần sáu giờ tối hôm sau và hỏi tôi đã ăn chưa. Tôi nói tôi vừa định đi. "Tôi cũng chưa," anh ta nói, "chúng ta ăn cùng nhau đi. Nếu có một điều tôi ghét, đó là ăn một mình!"
"Tôi cũng vậy," tôi đồng ý. "Rất vui vì anh đã tìm tôi." Nhưng trong nhà hàng, tôi không thể không nhận xét: "Anh có vẻ có rất nhiều thời gian rảnh."
"Hiện tại không có gì đặc biệt xảy ra," anh ta nói với tôi, đưa cho tôi đĩa bánh mì. "Nó dường như đến từng đợt."
"Vậy còn vụ Robbins thì sao? Vẫn còn đang giải quyết, phải không?"
Anh ta nhăn mặt một cách đãng trí. "Đó là một thất bại thảm hại," anh ta nói. "Càng ít nói về nó càng tốt. Món nào trên thực đơn này trông ngon với anh?"
Sau đó anh ta trở về phòng cùng tôi; bất kỳ người bạn nào tôi đã ăn cùng cũng sẽ làm vậy, trừ khi họ có một cuộc hẹn khác, và Bradford thì không. Tôi pha vài ly cocktail và chúng tôi nằm dài ra. Anh ta với tay ra sau từ chỗ mình ngồi đến chồng bản sao, rút một cái ra. "Một cuốn thơ, một bình rượu, và em," anh ta cười toe toét. "Nó là thế phải không? Đoán là tối nay chúng ta sẽ phải vật lộn mà không có 'em' vậy."
Anh ta bắt đầu đọc, rồi lại dừng lại sau một phút. "Ối! Tôi đọc cái này tối qua rồi." Anh ta đặt nó lại, rút cái dưới nó ra. Tôi uống xong ly của mình, mở nắp máy chữ, bắt đầu mày mò với một ý tưởng vừa nảy ra.
Cả hai chúng tôi đều không nói gì trong khoảng nửa giờ tiếp theo. Rồi anh ta nhận xét một cách uể oải, không có sự nhấn mạnh quá mức nào: "Trời, cái này y hệt vụ án chúng ta đang làm. Robbins, anh biết đấy."
Tôi ngước lên. Cuối cùng anh ta cũng đọc đến câu chuyện tôi đã gửi cho Wayne. Tôi thậm chí còn không để ý anh ta lấy nó ra. Nhưng rồi tất cả chúng đều trông giống nhau từ bên ngoài. Anh ta không nhìn tôi, anh ta buột miệng nhận xét trong khi tiếp tục đọc.
Nếu tôi là kẻ giết người, tôi sẽ tự nhủ: "Đến lúc rồi!" vào thời điểm này.
"Chuyện đó thường xảy ra," tôi trả lời một cách bình tĩnh. "Thực ra tôi đã viết thứ đó cách đây nhiều tháng, nó cứ nằm lăn lóc ở đây cả đời rồi."
Anh ta vẫn không ngước lên, tiếp tục đọc. "Ông không thử bán nó à?" anh ta muốn biết.
"Tôi đã gửi nó đi vài ngày trước, để thử lại lần nữa. Nghĩ rằng có lẽ sự trùng hợp sẽ giúp ích."
"Tôi biết ông đã làm vậy," anh ta nói nhỏ.
Tôi chưa hề nói cho anh ta biết điều đó. Và bây giờ, cuối cùng, không khí đã trở nên căng thẳng, tôi có thể cảm nhận được. Có lẽ là từ chính tôi, vì nó không đến từ anh ta. "Làm sao anh biết tôi đã làm vậy?"
"Hôm nay tôi đã xem xét bản sao họ có ở văn phòng nhà xuất bản."
"Anh cái gì?" tôi nổi giận. "Anh đang cố gắng làm gì vậy, bôi nhọ danh tiếng của tôi ở đó à?"
"Nào bình tĩnh, tôi không nói cho họ biết tôi là ai. Tôi tự giới thiệu mình là một người tìm kiếm tài năng cho một hãng phim độc lập, đang tìm kiếm tư liệu. Tôi đã phải lội qua rất nhiều thứ vớ vẩn trước khi họ lôi ra cái của ông."
"Và anh đã tìm ra điều gì?" tôi ném vào mặt anh ta.
Lần đầu tiên anh ta ngước nhìn tôi. "Ông không viết câu chuyện đó sáu tháng trước, và ông biết điều đó!" anh ta nói, gần như tiếc nuối, như thể anh ta chỉ đơn giản là đang cố gắng giúp trí nhớ của tôi.
"Vậy thì tôi là một nghi phạm?"
"Tôi chưa nói điều đó," anh ta nói nhẹ nhàng, mắt lại dán vào bản thảo. "Ông là người đang nổi nóng. Tất cả những gì tôi nói là, ông không viết câu chuyện này vào thời điểm ông nói."
"Anh trả lời tôi, hoặc cút khỏi đây!" Giọng tôi bắt đầu cao lên. "Tôi đã tiếp anh ở đây như một người bạn thân. Nếu anh định nói chuyện với tôi bằng giọng điệu đó, anh có thể cút khỏi đây ngay bây giờ!"
"Không, tôi không thể," anh ta nói. "Ông có thể coi sự hiện diện của tôi ở đây là chính thức, nếu ông phải làm vậy."
"Anh đang xâm phạm và anh không có quyền— Tôi có phải là nghi phạm hay không?"
"Không," anh ta nói một cách dứt khoát, nhưng vẫn không tức giận. Anh ta đợi một phút, rồi đứng dậy và nói thêm: "Ông là một đối tượng chắc chắn!" Và cuối cùng, gần như không liên quan gì đến những gì chúng tôi đang nói, "Và nhân tiện, ông bị bắt."
Tôi đã giữ vai diễn của mình một cách tuyệt vời. "Anh chẳng có cơ sở nào cả. Anh không biết mình đang nói gì…"
"Tucker," anh ta nói gần như buồn bã, "tôi chỉ ước tôi không biết—vì lợi ích của ông. Ông quá thông minh để kết thúc như thế này." Anh ta vỗ vào bản thảo bằng mu bàn tay. "Ông không tự bịa ra chuyện này. Nó khớp với mọi chi tiết của vụ giết Robbins. Đây chính là vụ án Robbins, rành rành ra đó! Nó mô tả chính xác căn hộ của Robbins!"
"Tại sao lại không? Tôi từng đến đó thường xuyên mà."
"Vâng, nhưng đó là hai năm trước. Căn phòng nơi ông ta bị giết được sơn màu kem cho đến gần đây, quản lý của Robbins nói với tôi. Hai tuần trước họ đã sơn lại nó màu xanh lục nhạt, theo yêu cầu của Robbins. Ông đã viết nó màu xanh lục nhạt trong câu chuyện của mình. Ông đã viết có rèm lá sách trong câu chuyện của mình. Chúng cũng mới được lắp đặt hai tuần trước."
Tôi châm một điếu thuốc, với một bàn tay không hề run rẩy, không một chút nào. "Chỉ dựa vào việc tôi mô tả một căn phòng màu xanh lục nhạt, trong một câu chuyện được bịa ra từ trí tưởng tượng của tôi, mà anh lại bắt tôi vì tội giết người? Đây là cái gì vậy, ma thuật à? Thời Trung cổ?"
"Tôi có cả triệu cách để tóm ông," anh ta nói, với tay lấy mũ, và đưa cho tôi cái của tôi. "Đây không phải là một câu chuyện được bịa ra từ trí tưởng tượng của ông, đây cũng giống như báo cáo chính thức của chúng tôi về vụ án. Thậm chí còn tốt hơn. Có những chi tiết trong đó mà không ai ngoài chúng tôi biết, những chi tiết hoàn toàn không được công khai. Chẳng hạn như Robbins mặc một chiếc áo choàng chấm bi màu xanh vào thời điểm ông ta chết. Thậm chí còn có những điều trong đó mà chính chúng tôi, với tư cách là điều tra viên, cũng không biết, chẳng hạn như danh tính của người phụ nữ trong bức ảnh đặt trên tủ quần áo của Robbins. Tất cả những gì cái này cần là chữ ký của ông, để trở thành một lời thú tội hoàn hảo. Để tôi nói cho ông nghe một điều nữa, chỉ để cho ông thấy ông đã tự kết tội mình một cách hoàn toàn như thế nào. Tên nhân vật của ông là Leslie Quiller, người bị sát hại trong câu chuyện của ông. Nhưng tâm trí thì nhanh hơn mắt hay ngón tay. Và ông đã viết trong cơn sốt của cảm hứng. Ông đã viết nhầm tên Hilary Robbins ba lần riêng biệt, thay cho cái tên ông đã chọn cho nhân vật của mình. Tại sao? Bởi vì ông đã nhìn thấy Robbins trước mặt mình khi ông mô tả cách ông đã giết ông ta vào đêm hôm trước!"
Tôi nói, với sự nhấn mạnh như búa bổ: "Tôi không quan tâm anh moi ra được bao nhiêu sự trùng hợp. Giả sử nó mô tả đúng căn hộ của Robbins? Giả sử tên ông ta hiện lên trong đầu tôi khi tôi đang viết nó—sáu tháng trước—và tự động chuyển sang giấy? Anh có thể chứng minh nó được viết sau vụ giết người chứ không phải trước không?"
"Tôi đã chứng minh rồi," anh ta nói. Anh ta lấy ra một chiếc hộp thiếc tráng men từ túi áo bên cạnh. Một chiếc hộp đựng băng máy chữ. "Tôi đã nhặt được cái này trong phòng ông vào buổi sáng đầu tiên Schuyler và tôi đến gặp ông. Ông đã thay băng máy chữ giữa chừng câu chuyện đó. Bản gốc, ở văn phòng của Wayne, cho thấy điều đó một cách rõ ràng; tôi không cần phải là một thám tử mới nhận ra được. Nó bắt đầu mờ nhạt, gần như không đọc được; nó đột ngột chuyển sang màu đen kịt ở giữa. Đây là chiếc hộp đựng cuộn băng mới đó. Đó là cuộn băng kia, trong máy chữ của ông ngay bây giờ."
"Nhưng không phải là cái tôi đã dùng để viết câu chuyện đó," tôi cười một cách ngoan cố. "Tôi cũng đã thay băng máy chữ giữa chừng câu chuyện đó—khi tôi đang viết nó sáu tháng trước."
"Tôi đã làm việc cật lực với ông cả tuần nay, Tucker," anh ta thở dài, "chứ không chỉ lười biếng đọc truyện và uống rượu của ông. Ông luôn mua băng máy chữ ở cùng một nơi, công ty sản xuất loại máy của ông, không bao giờ ở đâu khác. Người bán hàng ở đó biết tất cả về ông. Ông là một khách hàng rất khó tính. Chúng phải mới. Chúng phải toàn màu đen. Điều ông ghét nhất là những loại nửa đỏ nửa đen này. Bởi vì máy của ông nảy lên rất nhiều với tốc độ ông làm việc, và các đỉnh của các chữ hoa của ông bị ra màu đỏ do rung động. Anh ta biết anh ta sẽ liều mạng nếu đưa cho ông một cuộn đỏ-đen, ông chưa bao giờ mua một cái nào trong suốt những năm ông mua ở đó. Nhưng hôm nọ anh ta đã sơ suất trong lúc vội vàng, đưa nhầm cho ông loại sai. Anh ta phát hiện ra điều mình đã làm gần như ngay khi ông đi khỏi, mong đợi ông quay lại mắng anh ta bất cứ lúc nào. Anh ta đã nói với tôi về điều đó." Anh ta chỉ vào chiếc máy không nắp một cách gần như thờ ơ. "Nó ở đó kia, nửa đỏ, nửa đen, lần đầu tiên ông bị dính phải một cái như thế. Tucker, các chữ hoa trong câu chuyện của ông ở văn phòng của Wayne đều có sắc đỏ ở phía trên."
Tôi bắt đầu cảm thấy lạnh buốt, và một cảm giác buồn nôn cuộn lên từ đáy dạ dày.
Anh ta nói: "Cái hộp này sẽ là vật chứng A khi họ xét xử ông. Nó được ghi ngày tháng bằng mã. Giống như họ ghi ngày tháng cho cà phê và những thứ khác ngày nay. Ông không biết điều đó, phải không? Anh ta đã giải thích cho tôi." Anh ta lật ngược nó trong lòng bàn tay, để tôi có thể đọc được phần đáy của nó.
"Bremington-Grand Portable
đỏ / đen
1402P"
"Chữ cái ở cuối là viết tắt của tháng, tháng Giêng bắt đầu bằng chữ K. Ông đọc các chữ số ngược lại để biết ngày của tháng và năm. Ngày 20 tháng 6 năm 1941." Anh ta bỏ nó lại vào túi. "Và Robbins bị sát hại trong đêm ngày 19-20. Đó là cách tôi biết ông đã viết câu chuyện này sau đó, chứ không phải trước đó. Và tuy nhiên, cũng không đủ lâu sau đó để có được nó từ nguồn tin thứ hai. Dấu bưu điện trên bìa bản thảo của ông là 6 giờ chiều ngày hôm đó. Chỉ có báo sáng hôm sau mới đưa ra những thông tin chi tiết hơn về câu chuyện."
Anh ta gập máy chữ của tôi lại, xách nó lên bằng quai cầm để mang đi. "Đừng nghĩ tôi chỉ dựa vào dải băng," anh ta nói. "Còn rất nhiều thứ khác, nhưng dải băng đó là xương sống của bằng chứng của tôi. Ông đã làm giả bản thảo của mình, có lẽ bằng lửa. Nhưng mực trên đó vẫn còn mới và đen. Giấy đã phai màu, nhưng chữ thì không. Từ khi nào vậy? Và ngay cả giấy cũng không ố vàng đều quanh cả bốn cạnh, có một khoảng trắng nơi ông giữ nó bằng ngón tay cái và bảo vệ nó khỏi sức nóng. Ông đi cùng chứ, ông Tucker? Ông đã cư xử như một quý ông cho đến nay, và tôi tôn trọng ông vì điều đó. Chúng ta hãy giữ như vậy."
"Tôi đi," tôi nói. Tôi sửa lại nút thắt cà vạt, phủi bụi mũ trên khuỷu tay, đội nó lên. Tôi cười một chút khi chúng tôi khóa cửa phòng lại sau lưng. "Thế mà tôi chưa bao giờ viết truyện theo kiểu này. Ở đoạn kết luôn phải có một màn pháo hoa kịch tính chứ."
Anh ta nói với cái vẻ dễ mến đầy mưu mẹo, điều đã góp phần vào sự sa cơ của tôi: "Tôi đoán mình chẳng ra dáng một tay thám tử trong truyện cho lắm. Đừng bóc mẽ tôi nhé."
Khi chúng tôi bước ra khỏi thang máy ở tầng dưới, anh ta mang theo máy chữ, tôi thấy một lá thư nhô ra khỏi hộp thư của mình phía sau quầy lễ tân. Tôi có thể nhận ra loại giấy văn phòng màu ô liu đặc trưng của Wayne ngay cả ở khoảng cách đó.
Tôi là một nhà văn đến cùng. "Lại là về câu chuyện chết tiệt đó," tôi nói. "Để tôi xem ông ta nghĩ gì về nó. Nó đã khiến tôi trả giá đủ rồi."
"Cứ tự nhiên," anh ta đồng ý.
Tôi xé nó ra trong khi anh ta đứng đó canh chừng bên cạnh tôi.
"Tucker thân mến: Tôi rất tiếc nhưng tôi phải từ chối bản thảo 'Án Mạng Tự Gây', mặc dù một trong những hãng phim nhỏ hơn bất ngờ tỏ ra quan tâm vào đầu tuần, đã gửi một người đến đây để làm báo cáo về nó.
Nó không đạt tiêu chuẩn thông thường của anh. Như anh biết, chúng tôi thích mang lại cho độc giả của mình một cảm giác chân thực. Câu chuyện này quá phi lý, quá thiếu sức sống. Chuyện kiểu đó làm sao có thể xảy ra ngoài đời được.
Trân trọng,
Wayne."