Xin chào mọi người,
Trong thư này, chúng ta cùng nghe H.P. Lovecraft - ông hoàng, người trong cuộc - bình luận về thể loại kinh dị Mỹ, về nỗi sợ, theo quan điểm của ông, nhân dịp PM sắp ra mắt loạt tác phẩm lớn nhất của ông
Bài viết này đã có câu đầu trở thành kinh điển của văn học Mỹ:
Cảm xúc cổ xưa nhất và mạnh mẽ nhất của loài người là nỗi sợ, và loại sợ hãi cổ xưa nhất và mạnh mẽ nhất là nỗi sợ những điều chưa biết.
Dẫn luận về kinh dị siêu nhiên - Lovecraft
Từ Linh dịch từ tiếng Anh, bản gốc “Supernatural Horror in Literature: Introduction”
Cảm xúc cổ xưa nhất và mạnh mẽ nhất của loài người là nỗi sợ, và loại sợ hãi cổ xưa nhất và mạnh mẽ nhất là nỗi sợ những điều chưa biết.
Ít nhà tâm lý học nào sẽ tranh cãi về những sự thật này, và sự thừa nhận chân lý của chúng phải xác lập vĩnh viễn tính chân thực và phẩm giá của truyện kinh dị kỳ quái như một hình thức văn học. Chống lại nó là tất cả những mũi dùi của một sự tinh vi duy vật bám víu vào những cảm xúc thường nhật và các sự kiện bên ngoài, và của một chủ nghĩa lý tưởng ngây thơ nhạt nhẽo coi thường động cơ thẩm mỹ và kêu gọi một nền văn học giáo huấn để nâng người đọc lên một mức độ lạc quan tự mãn phù hợp. Nhưng bất chấp mọi sự phản đối này, truyện chí quái đã tồn tại, phát triển và đạt đến những đỉnh cao đáng kể; được xây dựng trên một nguyên tắc sâu sắc và cơ bản mà sức hấp dẫn của nó, nếu không phải lúc nào cũng phổ quát, thì nhất thiết phải sâu sắc và lâu dài đối với những tâm hồn nhạy cảm.
Sức hấp dẫn của cái rùng rợn ma quái thường hạn hẹp vì nó đòi hỏi ở người đọc một mức độ tưởng tượng nhất định và khả năng tách rời khỏi cuộc sống hàng ngày. Tương đối ít người đủ tự do thoát khỏi sinh hoạt hằng ngày để đáp lại những tiếng gõ cửa từ bên ngoài, và những câu chuyện về cảm xúc và sự kiện đời thường, hoặc về những biến dạng tình cảm phổ biến của những cảm xúc và sự kiện đó, sẽ luôn chiếm vị trí hàng đầu trong thị hiếu của đa số; có lẽ đúng, vì tất nhiên những vấn đề đời thường này chiếm phần lớn trải nghiệm của con người. Nhưng những người nhạy cảm luôn ở bên chúng ta, và đôi khi một vệt tưởng tượng kỳ lạ xâm chiếm một góc khuất của cái đầu cứng rắn nhất; đến nỗi không có lượng hợp lý hóa, cải cách hay phân tâm học Freud nào có thể hoàn toàn hủy bỏ được sự hồi hộp của lời thì thầm bên góc lò sưởi hay trong rừng hoang quạnh quẽ. Ở đây có liên quan đến một khuôn mẫu tâm lý hoặc truyền thống cũng thực tế và có cơ sở sâu sắc trong kinh nghiệm tinh thần như bất kỳ khuôn mẫu hoặc truyền thống nào khác của loài người; đồng thời với cảm giác tôn giáo và liên quan chặt chẽ đến nhiều khía cạnh của nó, và là một phần quá lớn trong di sản sinh học sâu thẳm nhất của chúng ta để mất đi sức mạnh mãnh liệt đối với một thiểu số rất quan trọng, mặc dù không lớn về số lượng, trong loài của chúng ta.
Bản năng và cảm xúc đầu tiên của con người hình thành phản ứng của anh ta đối với môi trường mà anh ta thấy mình trong đó. Những cảm giác rõ ràng dựa trên niềm vui và nỗi đau đã lớn lên xung quanh những hiện tượng mà anh ta hiểu được nguyên nhân và kết quả, trong khi xung quanh những hiện tượng mà anh ta không hiểu - và vũ trụ đầy rẫy chúng trong những ngày đầu - tự nhiên được dệt nên những sự nhân cách hóa, những diễn giải kỳ diệu, và những cảm giác kính sợ và sợ hãi như thể được một chủng tộc có ít ý tưởng đơn giản và kinh nghiệm hạn chế tình cờ nghĩ ra. Cái chưa biết - cũng là cái không thể đoán trước - đã trở thành đối với tổ tiên nguyên thủy của chúng ta một nguồn gốc khủng khiếp và toàn năng của những ân huệ và tai họa giáng xuống loài người vì những lý do hoàn toàn ngoài trái đất, và do đó rõ ràng thuộc về các lĩnh vực tồn tại mà chúng ta không biết gì và không góp phần của mình trong ấy. Hiện tượng ngủ mơ cũng giúp xây dựng khái niệm về một thế giới phi thực tâm linh; và nói chung, tất cả các điều kiện của thưở thái cổ hoang dã đều dẫn đến cảm giác về siêu nhiên một cách mạnh mẽ, đến nỗi chúng ta không cần phải ngạc nhiên về sự thấu đáo mà bản chất di truyền của con người đã thấm nhuần tôn giáo và mê tín. Sự thấm nhuần đó, như một sự thật khoa học hiển nhiên, phải được coi là hầu như vĩnh viễn đối với tiềm thức và bản năng bên trong; bởi vì mặc dù khu vực của cái chưa biết đã dần bị thu hẹp trong hàng ngàn năm, một kho chứa vô hạn của sự bí ẩn vẫn nhấn chìm hầu hết vũ trụ bên ngoài, trong khi một phần dư lớn của các liên kết di truyền mạnh mẽ bám quanh tất cả các đối tượng từng thuộc cõi bí ẩn, cho dù chúng bây giờ có thể được giải thích khoa học đến đâu. Và hơn thế nữa, có một sự cố định sinh lý thực sự của các bản năng cũ trong mô thần kinh của chúng ta, điều này sẽ khiến chúng hoạt động một cách mơ hồ ngay cả khi tâm trí có ý thức được thanh lọc khỏi mọi nguồn gốc của sự kỳ diệu.
Bởi vì chúng ta nhớ nỗi đau và mối đe dọa của cái chết thì lại sống động hơn là niềm vui, vì là cảm xúc của chúng ta đối với các khía cạnh nhân từ của cái chưa biết ngay từ đầu đã bị chiếm giữ và hình thức hóa bởi các nghi lễ tôn giáo thông thường, nên phần tối tăm và độc ác hơn của bí ẩn vũ trụ đã chủ yếu xuất hiện trong văn hóa dân gian siêu nhiên phổ biến của chúng ta. Xu hướng này, một cách tự nhiên, cũng được tăng cường bởi thực tế là sự bất trắc và nguy hiểm luôn liên minh chặt chẽ; do đó nó biến bất kỳ loại thế giới chưa biết nào thành một thế giới của hiểm nguy và những khả thể hắc ám. Khi cảm giác sợ hãi và hắc ám này được cộng hưởng bởi nỗi mê hoặc không thể tránh khỏi của sự kỳ diệu và nỗi tò mò, thì một thực thể tổng hợp gồm cảm xúc mãnh liệt và sự kích thích trí tưởng được sinh ra, mà sức sống của nó nhất thiết phải tồn tại chừng nào loài người còn tồn tại. Trẻ em sẽ luôn sợ bóng tối, và những người có tâm trí nhạy cảm với xung lực di truyền sẽ luôn run sợ khi nghĩ về những thế giới ngầm ẩn và không thể dò thấu của những dạng sống kỳ lạ trong các vực thẳm ngoài các vì sao, hoặc đè nặng một cách ghê tởm lên địa cầu của chúng ta trong những chiều không gian ô uế mà chỉ người chết và kẻ bị trăng ám mới có thể thoáng thấy.
Với nền tảng này, không ai cần phải ngạc nhiên về sự tồn tại của một nền văn học về nỗi hãi hùng dành cho vũ trụ. Nó đã luôn tồn tại, và sẽ luôn tồn tại; và không có bằng chứng nào tốt hơn về sức sống bền bỉ của nó có thể được trích dẫn hơn là sự thôi thúc mà đôi khi khiến các nhà văn có khuynh hướng hoàn toàn đối lập thử sức với nó trong những câu chuyện đơn lẻ, như thể để giải tỏa khỏi tâm trí họ những hình dạng ma quái nhất định mà nếu không sẽ ám ảnh họ. Do đó, Charles Dickens đã viết một số truyện kể kỳ lạ; Browning, bài thơ khủng khiếp “Childe Roland” (Childe Roland); Henry James với The Turn of the Screw; Holmes, cuốn tiểu thuyết tinh tế Elsie Venner (Elsie Venner); F. Marion Crawford, “The Upper Berth” (Giường Tầng Trên) và một số ví dụ khác; Bà Charlotte Perkins Gilman, nhân viên xã hội, “The Yellow Wall Paper” (Giấy Dán Tường Màu Vàng); trong khi nhà hài hước W. W. Jacobs đã tạo ra tác phẩm kịch tính xuất sắc có tên “The Monkey’s Paw” (Bàn Tay Khỉ).
Loại văn chương kinh dị này không được nhầm lẫn với một loại có vẻ ngoài tương tự nhưng về mặt tâm lý lại khác biệt rộng rãi; văn chương về nỗi sợ hãi thể xác đơn thuần và sự rùng rợn trần tục. Loại văn viết này, chắc chắn, có vị trí của nó, cũng như câu chuyện ma thông thường hoặc thậm chí kỳ quái hoặc hài hước nơi chủ nghĩa hình thức hoặc cái nháy mắt đầy hiểu biết của tác giả loại bỏ cảm giác thực sự về cái phi tự nhiên bệnh hoạn; nhưng những thứ này không phải là văn học về nỗi sợ hãi vũ trụ theo nghĩa thuần túy nhất của nó. Các truyện chí quái thực sự có nhiều thứ hơn là vụ giết người bí mật, xương máu, hoặc một hình dạng phủ khăn trải giường kêu leng keng từng hồi. Một bầu không khí nhất định của sự sợ hãi nghẹt thở và không thể giải thích được về các thế lực bên ngoài, chưa biết phải hiện diện; và phải có một gợi ý, được thể hiện với sự nghiêm túc và điềm báo phù hợp với chủ đề của nó, về khái niệm khủng khiếp nhất của bộ não con người - một sự đình chỉ hoặc đánh bại ác ý và đặc biệt đối với những quy luật cố định của Tự nhiên vốn là sự bảo vệ duy nhất của chúng ta chống lại các cuộc tấn công của hỗn loạn và ác quỷ của không gian không thể dò thấu.
Đương nhiên, chúng ta không thể mong đợi tất cả các câu chuyện kỳ quái đều tuân thủ tuyệt đối bất kỳ mô hình lý thuyết nào. Óc sáng tạo không đồng đều, và những tác phẩm tốt nhất cũng có những điểm mờ nhạt. Hơn nữa, phần lớn tác phẩm kỳ quái hay nhất lại là vô thức; xuất hiện trong những đoạn đáng nhớ rải rác trong các tài liệu mà hiệu ứng tổng thể có thể có một màu sắc rất khác. Bầu không khí là điều quan trọng nhất, bởi vì tiêu chí cuối cùng của tính xác thực không phải là sự khớp nối của cốt truyện mà là sự tạo ra một cảm giác nhất định. Chúng ta có thể nói, một cách tổng quát, rằng một câu chuyện kỳ quái có ý định dạy dỗ hoặc tạo ra hiệu ứng xã hội, hoặc một câu chuyện trong đó những điều kinh hoàng cuối cùng được giải thích bằng các phương tiện tự nhiên, không phải là một câu chuyện chân thực về nỗi sợ hãi vũ trụ; nhưng thực tế vẫn là những truyện kể như vậy thường sở hữu, trong các phần riêng biệt, những nét chấm phá về bầu không khí đáp ứng mọi điều kiện của văn học kinh dị siêu nhiên thực sự. Do đó, chúng ta phải đánh giá một câu chuyện kỳ quái không phải bằng ý định của tác giả, hay chỉ bằng cơ chế của cốt truyện; mà bằng cấp độ cảm xúc mà nó đạt được ở điểm ít trần tục nhất. Nếu những cảm giác thích hợp được khơi dậy, một "điểm cao" như vậy phải được thừa nhận dựa trên giá trị riêng của nó như là văn học chí quái [weird fiction], bất kể sau đó nó bị kéo xuống một cách tầm thường như thế nào. Phép thử duy nhất của cái thực sự kỳ quái đơn giản là thế này - liệu có hay không khơi dậy trong người đọc một cảm giác sợ hãi sâu sắc, và sự tiếp xúc với các lĩnh vực và sức mạnh chưa biết; một thái độ tinh tế của sự lắng nghe đầy kính sợ, như thể chờ đợi tiếng đập cánh đen hoặc tiếng cào cấu của các hình dạng và thực thể bên ngoài ở rìa xa nhất của vũ trụ đã biết. Và tất nhiên, một câu chuyện càng truyền tải bầu không khí này một cách hoàn chỉnh và thống nhất, thì nó càng tốt với tư cách là một tác phẩm nghệ thuật trong phương tiện nhất định.
Hết